Bỏ qua

Chương 9: Được tạo ra để tồn tại lâu dài (Made to last)

B. Lời nguyền tăng trưởng kinh tế

Tại sao chúng ta lại ngừng việc sử dụng yukata theo một cách hợp lý như vậy? Vâng, một lí do là lối sống ngày nay của chúng ta khiến việc mặc quần áo như yukata trở nên không thực tế; hơn nữa, các chính phủ liên tiếp đã tìm cách kích thích tăng trưởng kinh tế và mang lại sự thịnh vượng cho quốc gia bằng cách áp dụng các chính sách khuyến khích người dân vứt đồ đạc đi.

Các chính trị gia có thể lập luận rằng họ chưa bao giờ khuyến khích thói quen vứt bỏ đồ đac. Tuy nhiên, mặc dù sự thật là chính phủ đã không sử dụng những phương pháp thô thiển như dán áp phích kêu gọi người dân vứt đồ đạc sau khi sử dụng một lần, nhưng các chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của họ cũng có thể được coi là chính sách thúc đẩy sự phát triển của một xã hội vứt bỏ đồ đạc. Bằng chứng là không có chính trị gia lớn nào của đảng cầm quyền từng lên tiếng phản đối nghiêm túc ý tưởng ngớ ngẩn rằng tiêu dùng là cao quý.

Tăng trưởng tiêu thụ là yếu tố quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, và những hành vi như vắt kiệt từng chút giá trị của bộ yukata cho đến khi đốt dùng nó làm nhiên liệu rõ ràng đã làm suy yếu việc thúc đẩy tiêu dùng. Sự tôn trọng truyền thống của người Nhật đối với tiết kiệm là điều không phù hợp với tăng trưởng kinh tế, và chính phủ đã áp dụng các chính sách trên thực tế đã khuyến khích người dân từ bỏ sự tôn trọng đó, bằng cách tạo điều kiện dễ dàng cho các nhà sản xuất vay số tiền họ cần để có thể sản xuất hàng loạt và cung cấp hàng hóa giá rẻ, mà người tiêu dùng sẽ dễ dàng vứt bỏ.

Nếu các sản phẩm mới tung ra thị trường không chỉ trông đẹp hơn, có nhiều tính năng hơn mà còn rẻ, thì chúng ta nhất định sẽ mua chúng. Chúng ta rất vui khi tìm được thứ gì đó tốt hơn với mức giá hợp lý như vậy và đã có lúc ngạc nhiên khi hỏi về việc sửa chữa một đồ dùng bị hỏng, rằng việc mua một sản phẩm mới với hiệu suất tốt hơn và thậm chí nhiều tính năng hơn thậm chí sẽ rẻ hơn so với việc trả tiền sửa chữa đồ cũ.

Tuy nhiên, sau nhiều trải nghiệm như vậy, tinh thần tiết kiệm được xây dựng từ thế hệ này sang thế hệ khác của tổ tiên chúng ta có xu hướng mất đi ý nghĩa và chúng ta ngày càng bị cuốn theo sự tiện lợi của xã hội vứt bỏ đồ đạc. Rốt cuộc, việc vứt bỏ một đôi tất sẽ đỡ phiền phức hơn nhiều so với việc sửa chữa bất kỳ lỗ thủng nào xuất hiện. Chắc chắn, bạn có thể cảm thấy tội lỗi khi lần đầu tiên vứt bỏ một đôi tất khi một chiếc tất có một lỗ thủng nhỏ, nhưng theo thời gian, bạn sẽ quen dần và không cần đắn đo về việc đó. Hơn nữa, việc tăng tiêu dùng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, điều này có thể sẽ được phản ánh qua việc tăng thu nhập cá nhân. Những chiếc tất từng là một món đồ có giá trị giờ đây có giá trị tương đối rất thấp, rẻ đến mức bạn có thể dễ dàng vứt chúng vào thùng rác mỗi khi xuất hiện một lỗ thủng. Khi bạn cân nhắc thời gian cần thiết để vá một lỗ trên một chiếc tất và thực tế là việc mua một đôi tất mới sẽ khó khiến bạn tốn kém về mặt tài chính, thì ngày nay ai lại đi sửa một chiếc tất?

Về cơ bản, đây là cách Nhật Bản đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và trở thành một trong những quốc gia thịnh vượng nhất thế giới. Và nếu có thể, hầu hết chúng ta sẽ rất vui mừng khi thấy tình trạng này tiếp diễn mãi mãi, nhưng ngày nay chúng ta thấy mình đang phải đối mặt với một tình huống tai hại mà rất ít người cách đây 40 năm có thể tưởng tượng được—khả năng rất thực tế của việc cạn kiệt về nơi xử lý rác thải. Thật không may, chất thải có chứa một yếu tố vô hình, vô số chất có thể đầu độc nguồn nước và gây ô nhiễm không khí, và kết quả là, chỉ 50 năm kể từ khi hình thành, nền văn minh vứt bỏ đồ đạc của Nhật Bản có nguy cơ đi vào bế tắc. Trên thực tế, có lẽ sẽ chính xác hơn nếu nói rằng nó đã đạt đến tình trạng bế tắc đó.


Tác giả: Eisuke Ishikawa, nhà văn chuyên viết về các vấn đề môi trường và sinh thái thời Edo (1603-1867). Ông cũng là giảng viên tại Đại học Nghệ thuật Musashino. Những cuốn sách gần đây của ông giới thiệu sự khôn ngoan về cuộc sống bền vững trong thời kỳ Edo từ các góc độ công nghệ, năng lượng, quản lý tài nguyên và hệ thống tái chế của thời kỳ đó.

Sustainability in EDO (1603-1867)