Những đặc điểm chính của kinh tế học Phật giáo
1. Kinh tế trung đạo: Hiện thực hóa hạnh phúc thực sự
Một đặc điểm quan trọng của kinh tế học Phật giáo là tính “trung đạo”. Nó có thể được gọi là kinh tế học trung đạo (middle-way economics). Lối sống của Phật giáo được gọi là con đường và mỗi chi trong tám chi của con đường được gọi là sammā, có nghĩa là đúng đắn, ví dụ sammā ājīva: Chánh Mạng (Right Livelihood). Mỗi yếu tố đều là sammā vì nó mang lại lợi ích tối ưu trong phạm vi tương ứng của nó. Đây là con đường trung dung giữa quá nhiều và quá ít. Nó vừa đủ. Vì vậy, con đường trung đạo có nghĩa là ‘vừa đủ’.
Schumacher nói rằng sự hiện diện của Chánh Mạng trong Bát Chánh Đạo (Eight-Fold Path) của Phật giáo đòi hỏi phải có một nền kinh tế Phật giáo. Điều có thể được thêm vào tuyên bố đó là thực tế hiện diện không thể tránh khỏi của Tà Mạng (Right Livelihood). Tương tự như vậy, hoạt động kinh tế đúng đắn hàm ý hoạt động kinh tế sai lầm. Ở đây, nền kinh tế tốt hay “đúng đắn” là nền kinh tế trung đạo. Đạo Phật có đầy đủ những giáo lý đề cập đến con đường trung đạo—lượng vừa đủ—biết rằng sự điều độ và tất cả những thuật ngữ này có thể được coi là từ đồng nghĩa với ý tưởng về sự thăng bằng hoặc cân bằng. Nhưng chính xác thì tất cả những thuật ngữ này đề cập đến điều gì? Chúng ta có thể định nghĩa “lượng vừa đủ” là điểm mà tại đó sự hài lòng của con người và hạnh phúc thực sự trùng khớp với nhau, tức là khi chúng ta trải nghiệm sự hài lòng thông qua việc đáp ứng mong muốn về chất lượng cuộc sống. Điểm này dẫn trở lại chủ đề tiêu dùng đã được nêu ở trên (được xác định) là sự hoàn tất của kinh tế học. Ở đây chúng ta có thể xem xét lại ý nghĩa của việc tiêu dùng một lần nữa. Theo kinh tế học thông thường, thuật ngữ tiêu dùng dùng để chỉ việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ để đáp ứng mong muốn và nhu cầu nhằm mang lại sự hài lòng cao nhất. Tuy nhiên, trong hệ thống Phật giáo, tiêu dùng đề cập đến việc sử dụng hàng hóa và dịch vụ để đáp ứng mong muốn và nhu cầu theo cách mang lại sự hài lòng khi chất lượng cuộc sống được nâng cao. Theo quan điểm của Phật giáo, khi việc nâng cao hạnh phúc thực sự được trải nghiệm thông qua việc tiêu dùng thì việc tiêu dùng đó được cho là thành công. Nếu tiêu dùng chỉ mang lại cảm giác thỏa mãn và những cảm giác đó được nuông chiều mà không hiểu gì về bản chất của việc tiêu dùng đó hoặc hậu quả của nó, thì theo kinh tế học Phật giáo, điều này là sai. Việc thỏa mãn ham muốn có thể gây ra tác hại và có thể làm giảm chất lượng cuộc sống.
Tiêu dùng có thể nâng cao chất lượng cuộc sống và do đó tạo cơ sở cho sự phát triển hơn nữa về tiềm năng của con người, từ đó nâng cao cuộc sống. Như vậy, kinh tế học có liên quan đến toàn bộ sự tồn tại của con người. Vì vậy, nếu muốn có tính xác thực thì kinh tế phải đóng vai trò phát triển tiềm năng của con người và giúp loài người có thể có một cuộc sống cao thượng, được hưởng một loại hạnh phúc ngày càng trưởng thành hơn. Nếu không làm được như vậy thì nó có ích gì cho chúng ta?
Sự hoàn tất của kinh tế học nằm ở tiêu dùng được thể hiện trong kinh tế học Phật giáo bằng nguyên tắc bhojane mattaññutā. Đây là một lời dạy xuất hiện xuyên suốt trong kinh điển Phật giáo, ngay cả trong Ovāda Pāṭimokkha, những câu kệ được cho là chứa đựng cốt lõi của Phật giáo, nơi nó được diễn đạt là mattaññutā ca bhattasmiṁ, ‘biết điều độ trong tiêu dùng’. Biết điều độ tức là biết lượng tối ưu, bao nhiêu là “vừa phải”. Nguyên tắc mattaññutā, biết đúng lượng, là một nguyên tắc quan trọng trong Phật giáo. Nó xuất hiện trong nhiều bối cảnh khác nhau, chẳng hạn như một trong bảy đức tính của Người đàn ông (hay người phụ nữ) tốt và luôn hiện diện trong bất kỳ đề cập nào đến tiêu dùng.
Mattaññutā là đặc điểm nổi bật của kinh tế học Phật giáo. Biết lượng tiêu thụ phù hợp đề cập đến nhận thức về điểm tối ưu mà ở đó việc nâng cao hạnh phúc thực sự trùng hợp với trải nghiệm hài lòng. Trong giáo lý quy định cách các tu sĩ nam nữ nên sử dụng những vật dụng cần thiết được cung cấp cho họ, có nhấn mạnh rằng họ nên xem xét lý do và mục đích sử dụng của mình, như trong công thức truyền thống: Paṭisaṅkhā yoniso piṇḍapātaṁ ... ; suy ngẫm một cách sáng suốt, tôi thọ dụng (dùng) đồ ăn khất thực.” Bất cứ điều gì được tiêu thụ trước hết phải được suy ngẫm một cách khôn ngoan. Nguyên tắc này không chỉ giới hạn ở những người xuất gia; nó áp dụng cho tất cả các Phật tử. Chúng ta nên suy ngẫm một cách thông minh về thực phẩm rằng mục đích thực sự của việc ăn uống không phải là để giải trí, để thỏa mãn hay để mê hoặc vị giác. Chúng ta suy ngẫm rằng sẽ là không thoả đáng khi dùng thức ăn chỉ vì chúng đắt tiền và được ưa chuộng. Chúng ta không nên ăn uống xa hoa, lãng phí. Chúng ta nên ăn để duy trì sự sống, vì sức khỏe của cơ thể, để diệt trừ cảm giác đau khổ đã phát sinh do cái đói và ngăn ngừa những cảm giác đau khổ mới sẽ phát sinh (do ăn quá nhiều). Chúng ta ăn để có thể tiếp tục cuộc sống của mình một cách thoải mái. Chúng ta ăn để năng lượng lấy được từ thức ăn có thể hỗ trợ một cuộc sống cao quý và hạnh phúc. Bất cứ khi nào chúng ta tiêu thụ bất cứ thứ gì, chúng ta nên hiểu ý nghĩa của những gì chúng ta đang làm và tiêu thụ theo cách để trải nghiệm những kết quả phù hợp với mục đích đó. “Chỉ vừa đủ” hay “trung đạo” nằm ngay ở đây.
Khi một người suy ngẫm về việc tiêu dùng và hiểu rằng mục đích của nó là duy trì sức khỏe và hỗ trợ một cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc, thì hạnh phúc hoặc chất lượng cuộc sống thực sự sẽ là điều mà người đó mong muốn. Khi tiêu dùng một sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể, người đó sẽ cảm thấy hài lòng vì đã làm phong phú thêm chất lượng cuộc sống của họ. Đây là ý nghĩa của mattaññutā hay “lượng vừa phải” cấu thành nên con đường trung đạo.
Từ những điều trên cho thấy rằng hoạt động kinh tế là một phương tiện chứ không phải là mục đích tự thân. Kết quả kinh tế mong muốn không phải là kết quả thực tế mục tiêu mà là con đường đi đến mục tiêu đó, tức là chúng là cơ sở hỗ trợ cho quá trình phát triển con người hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn. Trong trường hợp thực phẩm, nó không chỉ có nghĩa là ăn để thưởng thức hương vị và cho no, mà là ăn đầy đủ để có năng lượng thể chất và tinh thần để có thể chú ý và suy ngẫm về những vấn đề sẽ làm tăng trưởng trí tuệ của mình. Trong câu chuyện được kể trước đó, Đức Phật cho người nông dân nghèo ăn thực phẩm, không chỉ để làm dịu cơn đói mà còn để sau đó ông có thể nghe Pháp. Tiêu dùng là một phương tiện để đạt được mục đích.
Những nguyên tắc này ngụ ý một số thực hành bổ sung nhất định. Chẳng hạn, những người có đủ thức ăn cho nhu cầu của mình thì không được khuyến khích ăn bao nhiêu tùy thích hoặc chỉ làm theo ham muốn của mình. Hơn nữa, đôi khi người ta còn khen ngợi những nhà sư chỉ ăn một lần mỗi ngày. Mặt khác, kinh tế học sẽ khen ngợi những người ăn nhiều nhất; những người ăn ba hoặc bốn lần một ngày. Nếu ai đó ăn mười lần một ngày thì càng tốt. Nhưng trong Phật giáo, cho rằng ăn một lần mỗi ngày là đủ để đáp ứng nhu cầu thực sự hạnh phúc, nên những nhà sư làm như vậy đều được khen ngợi. Tất nhiên, việc ăn một bữa mỗi ngày không phải là mục tiêu. Nếu sau đó người ta không làm gì để tận dụng sự thanh đạm đó thì thật vô nghĩa, chỉ là một cách tự ngược đãi bản thân mà thôi. Vì vậy người ta phải coi tiêu dùng là điều kiện để tự phát triển bản thân.
Ăn một bữa một ngày không phải là một thực hành chỉ dành cho các tu sĩ. Vào những ngày thọ giới Bát quan trai1, Phật tử tại gia (cư sĩ) có thể thọ Bát giới (Eight Precepts)2 một ngày một đêm, một trong số đó là giới không ăn quá giờ trưa. Việc từ bỏ bữa ăn tối trở thành một hoạt động kinh tế mang lại lợi ích cho việc phát triển chất lượng cuộc sống. Tiêu thụ từ đó là một hoạt động kinh tế dẫn đến sự phát triển chất lượng cuộc sống, về bản chất có thể tích cực hoặc tiêu cực; có thể có nghĩa là ăn hoặc không ăn. Nói cách khác, không ăn cũng có thể là một hoạt động kinh tế nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và khi làm như vậy sẽ mang lại sự hài lòng.
Thông thường sự hài lòng của chúng ta phát sinh từ việc tiêu dùng, nhưng cũng có nhiều trường hợp chúng ta có thể trải nghiệm cảm giác hài lòng khi không tiêu dùng. Tuy nhiên, sự thỏa mãn khi không tiêu dùng có thể phát sinh từ một số bất tịnh trong tinh thần, ví dụ như người ta chỉ có thể ăn một lần mỗi ngày vì kiêu ngạo, để chứng tỏ mình là người cứng rắn hay khổ hạnh như thế nào, và sau đó cảm thấy vui thích và hài lòng trong sự kiêu hãnh mà người ta cảm thấy về thành tựu của mình. Sự thỏa mãn phát sinh từ ngã mạn chỉ cách sự thỏa mãn phát sinh từ sự thỏa mãn tham ái một bước. Hình thức thỏa mãn đúng đắn trong trường hợp này là ăn ít hoặc kiêng ăn như một cách rèn luyện bản thân, để đi ngược lại bản chất của ham muốn, và sau đó cảm thấy hài lòng và hài lòng với kết quả hạnh phúc thực sự của mình tăng lên. Rất nhiều người, trong nỗ lực tìm kiếm sự thỏa mãn thông qua việc tiêu thụ, đã làm tổn hại đến sức khỏe của mình và gây hại cho chính họ và người khác. Chẳng hạn, uống rượu để thỏa mãn dục vọng nhưng lại là nguyên nhân gây ra bệnh tật, tranh cãi và tai nạn. Những người ăn theo khẩu vị thường ăn quá nhiều và khiến bản thân không khỏe mạnh. Những người khác không hề quan tâm đến giá trị thực phẩm và lãng phí rất nhiều tiền vào đồ ăn vặt, đến mức một số người thậm chí còn bị thiếu một số vitamin và khoáng chất mặc dù ăn nhiều bữa mỗi ngày. Thật đáng kinh ngạc, thậm chí đã có báo cáo về các trường hợp suy dinh dưỡng. Ngoài việc không mang lại lợi ích gì cho bản thân, việc ăn quá nhiều của họ còn làm mất đi thức ăn của người khác. Vì vậy niềm vui và sự hài lòng không phải là thước đo giá trị. Nếu sự hài lòng của chúng ta nằm ở những thứ không làm phong phú thêm chất lượng cuộc sống thì đôi khi nó có thể huỷ hoại hạnh phúc thực sự của chúng ta. Chúng ta có thể trở nên ảo tưởng và say sưa; chúng ta có thể mất sức khỏe, mất chất lượng cuộc sống.
Có một nguyên lý kinh tế truyền cổ điển cho rằng giá trị thiết yếu của hàng hóa nằm ở khả năng mang lại sự hài lòng cho người tiêu dùng. Ở đây, chúng ta có thể chỉ ra những ví dụ nêu trên trong đó mức tiêu thụ nhiều và sự hài lòng cao có cả kết quả tích cực và tiêu cực. Quan điểm của Phật giáo cho rằng lợi ích của hàng hóa và dịch vụ nằm ở khả năng mang lại cho người tiêu dùng cảm giác hài lòng vì đã nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. Cần phải có sự bổ sung như thế. Tất cả các định nghĩa, dù là về hàng hóa, dịch vụ, của cải hay bất cứ thứ gì, đều phải được sửa đổi theo cách này.
2. Không làm hại bản thân và người khác
Một ý nghĩa khác của thuật ngữ ‘vừa đủ’ là không làm hại bản thân hoặc người khác. Đây là một nguyên tắc quan trọng khác và được sử dụng trong Phật giáo như tiêu chuẩn cơ bản của hành động đúng đắn, không chỉ liên quan đến tiêu dùng mà còn đối với mọi hoạt động của con người. Ở đây có thể lưu ý rằng trong Phật giáo, “không làm hại người khác” không chỉ áp dụng cho con người mà còn áp dụng cho tất cả sinh vật sống, hoặc theo một cách diễn đạt hiện đại hơn, cho cả các hệ sinh thái.
Từ góc độ Phật giáo, các nguyên tắc kinh tế có liên quan đến ba khía cạnh tương liên với nhau về sự tồn tại của loài người: con người, tự nhiên và xã hội (tự nhiên được dùng theo nghĩa hệ sinh thái). Kinh tế học Phật giáo phải hòa hợp với toàn bộ quá trình nhân quả và để làm được điều đó nó phải có mối quan hệ đúng đắn với cả ba khía cạnh đó, từ đó phải hài hòa và hỗ trợ lẫn nhau. Hoạt động kinh tế phải diễn ra sao cho không gây hại cho bản thân, tức là không gây suy giảm chất lượng cuộc sống mà trái lại còn nâng cao chất lượng cuộc sống. Không làm hại người khác có nghĩa là không gây đau khổ, kích động cho xã hội và không gây suy thoái chất lượng các hệ sinh thái.
Hiện nay, nhận thức của các nước phát triển về vấn đề môi trường ngày càng tăng. Mọi người lo lắng về các hoạt động kinh tế kéo theo việc sử dụng các hóa chất độc hại và việc đốt nhiên liệu hóa thạch, v.v. Những hoạt động như vậy có hại cho sức khỏe cá nhân, phúc lợi xã hội và môi trường. Chúng có thể được bao gồm trong cụm từ làm hại chính mình và làm hại người khác, và là một vấn đề lớn đối với nhân loại.
-
Người cư sĩ thường giữ tám giới gọi là Bát Quan Trai giới (Uposathasīla) vào 6 ngày hay 8 ngày Âm lịch trong một tháng. ↩
-
Bát giới hay Bát quan trai giới (Uposathasīla) là một phép tu hành của người tại gia áp dụng trong một ngày một đêm (24 giời), giữ gìn cho thân tâm thanh tinh bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi sau: không sát sinh, không trộm cướp, không dâm dục, không nói dối, không uống rượu, không trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát, không nằm ngồi giường cao rộng đẹp đẽ, không ăn quá giờ ngọ. (lược dẫn Bát Quan Trai giới, Phật học Phổ Thông, HT. Thích Thiện Hoa) ↩