Bỏ qua

Hạn chế của lý thuyết kinh tế trong thời đại công nghiệp

1. Chuyên môn hoá

Ở thời điểm hiện tại, các nhà kinh tế xem xét hoạt động kinh tế một cách biệt lập, không liên quan đến các hình thức hoạt động khác của con người hoặc các ngành học thuật khác. Sự chuyên môn hóa này là một trong những đặc điểm phát triển của Thời đại Công nghiệp. Do đó, khi xem xét hoạt động của con người, các nhà kinh tế cố gắng loại bỏ tất cả các khía cạnh hoặc quan điểm phi kinh tế khỏi sự cân nhắc của họ và tập trung vào một góc nhìn duy nhất: ngành nghiên cứu của chính mình. Việc tách biệt các vấn đề kinh tế khỏi bối cảnh rộng hơn của chúng có thể được coi là nguyên nhân chính gây ra nhiều vấn đề hiện đang bao vây chúng ta.

Trong Phật giáo, kinh tế học không tách rời khỏi các nhánh tri thức và kinh nghiệm khác. Trong nỗ lực khắc phục các vấn đề của loài người, các hoạt động kinh tế không tách rời khỏi các hoạt động trong các lĩnh vực khác. Kinh tế học không được coi là một ngành khoa học độc lập, khép kín mà là một trong số các ngành phụ thuộc hoạt động trong toàn bộ ma trận xã hội/tồn sinh. Các hoạt động kinh tế bề ngoài được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau. Có thể lấy quảng cáo làm ví dụ; nói theo thuật ngữ kinh tế thuần túy, quảng cáo bao gồm các phương pháp được sử dụng để thuyết phục mọi người mua hàng. Nó dẫn đến tăng doanh thu nhưng chi phí cũng tăng khiến hàng hóa trở nên đắt hơn. Nhưng quảng cáo cũng gắn liền với sự phổ biến giá trị: nhà quảng cáo phải dựa trên những khát khao, thành kiến và mong muốn chung để tạo ra những quảng cáo hấp dẫn. Tâm lý xã hội được sử dụng để sử dụng các giá trị phổ biến cho mục đích kinh tế. Quảng cáo cũng có ý nghĩa đạo đức vì nó tác động tới tâm trí đại chúng. Khối lượng quảng cáo có thể gây ra sự gia tăng chủ nghĩa vật chất, những hình ảnh hoặc thông điệp không phù hợp có thể gây tổn hại đến đạo đức công cộng. Trên bình diện chính trị, các quyết định phải được đưa ra liên quan đến chính sách quảng cáo—liệu có bất kỳ sự kiểm soát nào không, và nếu có thì dưới hình thức nào? Làm thế nào một người có thể đạt được sự cân bằng hợp lý giữa các mối quan tâm về đạo đức và kinh tế? Giáo dục cũng có liên quan. Có thể phải tìm ra những cách để dạy mọi người nhận thức được cách thức hoạt động của quảng cáo, suy ngẫm về nó và cân nhắc mức độ đáng tin của nó. Nền giáo dục tốt nên tìm cách làm cho mọi người thông minh hơn trong việc đưa ra quyết định mua hàng. Vì vậy, chủ đề của quảng cáo cho thấy các hoạt động phổ biến trong xã hội có thể phải được xem xét từ nhiều góc độ, trong đó tất cả đều có liên quan đến nhau.

Chuyên môn hóa có thể mang lại lợi ích to lớn miễn là chúng ta không đánh mất mục tiêu căn bản của mình. Các ngành học khác nhau được xem là những phần khác nhau của một biện pháp hoàn chỉnh đối với các vấn đề của con người. Nếu xác định được đầy đủ phạm vi trách nhiệm của từng chuyên ngành thì trách nhiệm đó có thể được hoàn thành và điểm tiếp xúc giữa các ngành được xác định rõ ràng hơn. Khi đó sẽ có thể thực hiện được một nỗ lực phối hợp hơn nhằm giảm bớt đau khổ của con người, một nỗ lực sẽ mang lại kết quả tốt hơn những gì đang đạt được hiện nay. Sai lầm nằm ở sự kiêu ngạo của chúng ta, lấy ngành nghiên cứu của chính mình để có thể tự mình giải quyết mọi khó khăn. Đó không chỉ là một quan niệm sai lầm mà còn cản trở việc giải quyết thành công các vấn đề trước mắt. Nếu quan điểm này được chấp nhận thì chúng ta phải tìm ra chính xác nơi kinh tế học kết nối với các ngành khoa học, chuyên ngành và hoạt động khác của con người. Kinh tế kết nối với giáo dục và đạo đức ở đâu trong việc giải quyết các vấn đề của con người? Nếu những điểm tiếp xúc này có thể được làm rõ thì có thể tìm thấy giá trị thực sự của chuyên môn hóa.

Việc Schumacher có quan điểm rằng sự tồn tại của Chánh Mạng như một trong những yếu tố của Bát Chánh Đạo đòi hỏi phải có một nền kinh tế Phật giáo; việc này kéo theo một số hệ quả. Đầu tiên, nó chỉ ra rằng Chánh Mạng (hay kinh tế học) phải được coi là có tầm quan trọng to lớn trong Phật giáo để nó được đưa vào như một trong những yếu tố của con đường tu tập. Nó cho thấy Phật giáo chấp nhận tầm quan trọng của kinh tế. Thứ hai, và ngược lại, nó có nghĩa là kinh tế học chỉ được coi là một trong số nhiều yếu tố (theo truyền thống là tám) tạo nên một lối sống đúng đắn, tức là một lối sống có khả năng giải quyết các vấn đề mà nhân loại đang phải đối mặt.

2. Không vô đạo đức nhưng thiếu quan tâm đến đạo đức

Một giải pháp cho những vấn đề mà nhân loại đang phải đối mặt đòi hỏi sự có mặt của nhiều yếu tố, một trong số đó là đạo đức, một chủ đề đặc biệt liên quan đến bản thân tôi với tư cách là một tu sĩ Phật giáo. Tôi muốn thảo luận về đạo đức ở đây dưới góc độ mối quan hệ với kinh tế, để nó có thể làm sáng tỏ mối liên hệ giữa các thành phần khác nhau trong một lối sống đúng đắn. Chúng ta đã thấy tầm quan trọng to lớn của mối quan hệ này ở mức độ tổng quát, vì vậy bây giờ chúng ta hãy xem xét một số trường hợp cụ thể minh họa bản chất của mối quan hệ này và tầm quan trọng của nó.

Đạo đức (hoặc sự thiếu đạo đức) đều ảnh hưởng đến kinh tế một cách trực tiếp và gián tiếp. Ví dụ, nếu một khu vực cụ thể không an toàn, có trộm cướp, nhiều bạo lực và nếu đường dây liên lạc không an toàn—thì rõ ràng là các doanh nghiệp sẽ không đầu tư ở đó, khách du lịch sẽ không muốn đến đó, v.v. Nền kinh tế của khu vực do đó bị ảnh hưởng tiêu cực. Đây là một hiện tượng có thể dễ dàng quan sát được.

Trong hệ thống giao thông công cộng, nếu nhân viên, người thu vé và hành khách đều trung thực thì chính phủ không chỉ nhận được toàn bộ doanh thu mà còn có thể tiết kiệm chi phí kiểm tra. Nếu có thể tin cậy vào sự trung thực của hành khách thì có thể thay thế người thu tiền bằng máy bán vé (tự động). Khi người dân có kỷ luật tự giác và góp phần giữ gìn môi trường xung quanh sạch sẽ và không có rác thải, chính quyền thành phố có thể không phải lãng phí quá nhiều kinh phí vào việc thu gom rác và các hoạt động dọn dẹp khác.

Ngược lại, nếu các doanh nghiệp quá tham lam và cố gắng tăng lợi nhuận bằng cách sử dụng các thành phần không đạt tiêu chuẩn trong thực phẩm, ví dụ như dùng thuốc nhuộm vải làm chất tạo màu cho kẹo trẻ em, thay nước cam bằng hóa chất, hoặc cho axit boric vào thịt viên (tất cả đều đã xảy ra ở Thái Lan trong những năm gần đây), sức khỏe người tiêu dùng bị đe dọa. Những người bị bệnh do những hành vi này phải trả chi phí y tế. Chính phủ phải chi tiền cho cảnh sát điều tra và truy tố những kẻ phạm tội. Hơn nữa, những người có sức khỏe kém thì làm việc kém hiệu quả, khiến năng suất giảm sút. Trong thương mại quốc tế, những người coi hàng kém chất lượng là hàng có chất lượng sẽ có nguy cơ đánh mất niềm tin của khách hàng và thị trường nước ngoài cũng như nguồn ngoại tệ thu được từ các thị trường đó.

Sự tự do của hệ thống thị trường tự do có thể bị mất đi do các doanh nghiệp sử dụng các phương tiện cạnh tranh vô đạo đức; việc tạo ra sự độc quyền thông qua thế lực là một ví dụ phổ biến, hay việc sử dụng côn đồ để ám sát một đối thủ cạnh tranh là ví dụ khác thường hơn. Việc loại bỏ các đối thủ bằng bạo lực báo trước sự kết thúc của hệ thống thị trường tự do, mặc dù đây là một phương pháp hiếm khi được đề cập trong sách giáo khoa kinh tế.

Các công ty phương Tây gửi thuốc đến các nước thuộc thế giới thứ ba mà họ bị cấm bán ở nước mình. Những thứ được gọi là ‘thuốc’ đó gây nguy hiểm cho sức khỏe và tính mạng của bất kỳ ai tiêu thụ chúng. Về mặt kinh tế, nó gây ra sự suy giảm về chất lượng và hiệu quả lao động đồng thời đòi hỏi tăng chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe, gây lãng phí cho quốc gia.

Các doanh nghiệp sử dụng quảng cáo để kích thích sự ham muốn về sản phẩm của mình. Chi phí quảng cáo được tính vào chi phí vốn và do đó được cộng vào giá của sản phẩm. Vì vậy, mọi người có xu hướng mua những thứ không cần thiết với mức giá đắt đỏ không cần thiết. Có rất nhiều sự phung phí và lãng phí. Mọi thứ được sử dụng một thời gian ngắn và sau đó được thay thế, mặc dù vẫn còn trong tình trạng tốt. Đây là sự lãng phí nguồn lực kinh tế và sự tồn tại của tình trạng gắn liền với xu hướng phô trương của cải và địa vị xã hội. Các doanh nhân có thể khai thác những ham muốn như vậy để kiếm nhiều tiền hơn từ khách hàng của mình bởi những người thích phô trương tài sản và địa vị có xu hướng mua những sản phẩm đắt tiền không cần thiết mà không quan tâm đến chất lượng của chúng. Họ lấy sự hợm hĩnh bề ngoài làm tiêu chí của mình, không coi chi phí là vấn đề. Tệ hơn nữa, ngày nay có nhiều người ở Thái Lan không thể đợi đến khi tiết kiệm đủ để mua một sản phẩm mới nào đó, đã vội vã đi vay tiền và rơi vào cảnh nợ nần. Chi tiêu vượt quá thu nhập sẽ gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng. Cuối cùng, địa vị của người mà đồ mua sắm muốn đề cao sẽ suy giảm, cùng với nền kinh tế của đất nước khi cán cân thương mại với các quốc gia khác chuyển sang màu đỏ.

Một người trong giới kinh doanh từng nói với tôi rằng ở Thái Lan nếu nhìn thấy một người theo đạo Sikh đi xe máy thì người ta gần như chắc chắn anh ta là một người giàu có. Nếu anh ta lái một chiếc ô tô thì người ta có thể cho anh ta đương nhiên là một triệu phú. Nhưng nếu đi vào tỉnh sẽ thấy 50% người Thái đi xe máy đã mua chúng bằng tín dụng. Hiện tượng kinh tế này còn là vấn đề giá trị xã hội. Việc mua ô tô cũng vậy. Khá nhiều người nghèo mua ô tô bằng tiền đi vay hoặc trả góp. Vì vậy, ô tô ở khắp mọi nơi, điều này làm nảy sinh vấn đề tắc nghẽn giao thông với tất cả những ảnh hưởng xấu đi kèm của nó đối với nền kinh tế cho đến khi cuối cùng xảy ra tình trạng hỗn loạn. Kinh tế không thể tách rời khỏi các vấn đề xã hội. Tình yêu với sự phô trương và hào nhoáng đã trở nên nổi bật ở Thái Lan. Một số người, mặc dù khá giả, sẽ từ chối trả vài đô-la cho một vé xem buổi biểu diễn. Để thể hiện mối quan hệ của mình, họ sẽ tìm cách nhận được một vé miễn phí. Sau đó, họ sẽ vênh váo bước vào buổi biểu diễn với tấm vé miễn phí. Trong những trường hợp như vậy, họ không sẵn lòng chi dù chỉ một hoặc hai đô la. Nhưng cũng chính những người đó, để thể hiện uy tín hoặc địa vị xã hội của mình, có thể sắp xếp một bữa tiệc xa hoa cho rất nhiều người và tiêu tốn hàng ngàn đô la. Đặc điểm tính cách này, hay loại hệ thống giá trị này, có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Đôi khi các nhà kinh tế phương Tây đến Thái Lan và gặp phải hiện tượng này, họ nói rằng nó khiến họ thất vọng. Họ không thể tìm ra cách giải quyết các vấn đề kinh tế của đất nước này. Khi họ gặp những trạng thái tinh thần và cách ứng xử mới lạ này, họ bối rối không biết làm cách nào để tìm ra giải pháp.

Trong các vấn đề kinh tế, chúng ta phải xem xét các yếu tố khác nhau có liên đới đến chúng, một yếu tố quan trọng trong số đó là sự tự tin hay niềm tin. Chúng ta cần có niềm tin vào các ngân hàng, niềm tin vào thị trường chứng khoán. Bất cứ lúc nào khi mất niềm tin thị trường chứng khoán cũng có thể sụp đổ và các ngân hàng rơi vào tình trạng phá sản. Ngay cả niềm tin vào cảm giác tin tưởng vào những lời tuyên bố của các nhà quảng cáo cũng có tác động đến nền kinh tế. Nhưng sự tự tin cũng bị quy định bởi các yếu tố khác. Sự hiện diện hay vắng mặt của nó thường là kết quả của sự thao túng có chủ ý của lợi ích kinh doanh.

Ở nơi làm việc, nếu người sếp có trách nhiệm, có năng lực và tốt bụng, thu hút được sự tin tưởng và yêu mến của nhân viên, nhân viên hòa đồng, siêng năng và tận tâm với công việc thì năng suất sẽ cao. Đã có trường hợp người chủ là người tốt đến nỗi khi kinh doanh thất bại và gần phá sản, nhân viên đã thông cảm hy sinh và làm việc chăm chỉ nhất có thể để công ty có lãi trở lại. Trong những trường hợp như vậy, nhân viên đôi khi sẵn sàng giảm lương thay vì chỉ yêu cầu bồi thường.

Vì vậy, những giá trị trừu tượng của con người trở thành những biến số kinh tế. Chúng ta có thể thấy rõ rằng sự cần cù, trung thực, tận tâm với công việc và đúng giờ có tác dụng rất lớn đến cả năng suất và hiệu quả. Ngược lại, sự buồn chán, gian lận, không trung thực, phân biệt đối xử, chán nản, xung đột, thậm chí trầm cảm và lo lắng riêng tư đều có những ảnh hưởng bất lợi đến năng suất và điểm này rất quan trọng.

Ở mức độ rộng hơn, chủ nghĩa dân tộc có ý nghĩa quan trọng. Nếu ý thức yêu nước có thể thấm nhuần vào người dân, họ có thể sẽ từ chối mua hàng nước ngoài, ngay cả khi hàng hóa đó có chất lượng cao và có những động cơ khuyến khích người ta mua chúng. Mọi người có thể gác lại những ham muốn cá nhân vì sự vĩ đại của đất nước họ và chỉ sử dụng những thứ được sản xuất trong nước họ. Họ mong muốn được giúp đỡ sản xuất để đất nước mình thịnh vượng và trở thành một cường quốc trên thế giới. Nó có thể đạt đến mức độ như ở Nhật Bản, nơi chính phủ phải cố gắng thuyết phục người dân mua sản phẩm từ nước ngoài. Do đó, chủ nghĩa dân tộc là một hệ thống giá trị khác có ảnh hưởng đến kinh tế.

3. (Kinh tế) không là một ngành khoa học, nhưng muốn trở thành một ngành khoa học

Số lượng lớn các ví dụ mà tôi đưa ra cho đến nay đều nhằm mục đích chứng minh tác động sâu sắc và quan trọng của đạo đức và các giá trị đối với kinh tế học. Tuy nhiên, đạo đức, tức là các câu hỏi về tốt và xấu chỉ là một khía cạnh của Pháp (Dhamma)1. Mối quan hệ của Pháp với kinh tế không chỉ giới hạn trong phạm vi đạo đức. Một cách khác mà Pháp được kết nối với kinh tế là liên quan đến bản chất thực sự của sự vật, điều kiện tự nhiên của các hiện tượng. Trên thực tế, khía cạnh này thậm chí còn quan trọng hơn đạo đức vì nó liên quan đến cốt lõi hay bản chất của kinh tế học. Từ ‘Pháp’ ở đây được dùng để chỉ sự thật, hay nói cách khác là quá trình nhân quả phức tạp và năng động cấu thành nên thế giới của chúng ta. Nếu kinh tế học không biết, hiểu và giải quyết đầy đủ về toàn bộ quá trình nhân quả, lý thuyết kinh tế sẽ không thể đưa ra giải pháp cho các vấn đề nảy sinh hoặc tạo ra những tác động có lợi mà nó mong muốn. Đó sẽ là một nền kinh tế không hài hòa với “bản chất của sự vật” (Saccadhamma).

Những lời dạy của Đức Phật hay ‘bản chất của sự việc’.

‘Bản chất của sự vật’ đề cập đến bản chất của tự nhiên, tức là phương thức tồn tại thực sự của các hiện tượng và nó bao gồm tất cả các khía cạnh của lý thuyết và thực tiễn. Nó không phải là chủ đề của bất kỳ nhánh kiến thức cụ thể nào, mà là bản chất của khoa học hoặc bản chất mà khoa học tìm cách khám phá. Xu hướng hiện nay hướng tới sự phân chia và tách biệt các khía cạnh khác nhau của một chủ đề phức tạp, một chủ đề thậm chí đã đạt đến mức xử lý theo Pháp, là một xu hướng nguy hiểm và có thể khiến chúng ta lạc lối khỏi sự thật. Đó là một điểm quan trọng khác cần phải được hiểu.

Kinh tế học được cho là khoa học nhất của xã hội khoa học. Quả thực, các nhà kinh tế học tự hào về tính khoa học của ngành này: rằng họ chỉ xem xét những thứ có thể đo lường và định lượng được. Thậm chí người ta còn khẳng định rằng kinh tế học thuần túy là môn khoa học về các con số, một vấn đề của các phương trình toán học. Trong nỗ lực trở thành một khoa học, kinh tế học cố gắng loại bỏ tất cả các câu hỏi về giá trị trừu tượng không thể định lượng được, và tìm cách trở nên phi giá trị. Nhưng để phản đối xu hướng này, một số nhà phê bình kinh tế học, thậm chí cả chính một số nhà kinh tế học, nói rằng thực chất, trong tất cả các ngành khoa học xã hội, kinh tế học là ngành phụ thuộc vào giá trị nhất. Người ta có thể hỏi làm thế nào kinh tế học có thể trở thành một ngành khoa học phi giá trị khi điểm khởi đầu của nó là nhu cầu nhận thức của con người, vốn là một chức năng của hệ thống giá trị của tâm trí con người. Hơn nữa, mục đích cuối cùng hoặc mục tiêu của kinh tế học là đáp ứng những nhu cầu được nhận thức đó để đáp ứng sự hài lòng của người dân và sự hài lòng cũng là một giá trị trừu tượng. Vì vậy kinh tế bắt đầu và kết thúc bằng các giá trị trừu tượng. Các quyết định kinh tế liên quan đến sản xuất, tiêu dùng, v.v. phần lớn phụ thuộc vào giá trị, chẳng hạn như trong các cuộc tranh luận về việc cấp quyền khai thác mỏ ở các công viên quốc gia. Do đó, kinh tế học không thể không có giá trị, và chính sự phụ thuộc vào các giá trị này đã khiến kinh tế học không đủ tư cách trở thành một khoa học hoàn chỉnh.

Hai điểm nữa có thể được đưa ra liên quan đến vấn đề này, điểm đầu tiên là các nguyên tắc và lý thuyết kinh tế chứa đầy những giả định chưa được xác minh, và rằng một ngành khoa học không thể có cơ sở như vậy. Đó là một lý do phản đối quan trọng. Thứ hai, việc kinh tế học là một ngành khoa học cũng không phải là một điều tốt. Khoa học còn quá nhiều hạn chế để có thể giải quyết mọi vấn đề của nhân loại. Nó chỉ cho thấy một mặt của sự thật, mặt liên quan đến thế giới vật chất. Nếu kinh tế học thực sự trở thành một khoa học thì nó sẽ đi theo con đường tương tự như khoa học, và sau đó sẽ bị hạn chế về khả năng khắc phục đau khổ của con người.

Thái độ tốt nhất đối với kinh tế học là nhìn nhận và chấp nhận sự sự thật về sự vật. Nỗ lực mang tính khoa học (nghĩa là chính xác và rõ ràng) của kinh tế học là một trong những điểm tốt của nó và cần được duy trì. Tuy nhiên, đồng thời, để có bất kỳ câu trả lời thực sự và hiệu quả nào cho sự đau khổ của con người—đặc biệt là ở thời điểm hiện tại đang là “bước ngoặt” của xã hội loài người&mdahs;kinh tế chắc chắn phải mở cửa hợp tác với các ngành khác. Nó cần có cái nhìn rộng hơn, toàn diện hơn về vấn đề giá trị. Ngay khi các giá trị được chấp nhận là đối tượng chính đáng để xem xét, thì chúng trở thành các yếu tố cần được nghiên cứu theo trạng thái thích hợp của chúng, giúp nhìn thấy toàn bộ quá trình nhân quả. Nhưng nếu các giá trị không được nghiên cứu thì kinh tế học không bao giờ có thể mang tính khoa học bởi vì nó không thể phát triển bất kỳ hiểu biết nào về toàn bộ quá trình nhân quả trong đó các giá trị là một phần không thể thiếu.

Hiện tại, kinh tế học chỉ chấp nhận một số loại hoặc khía cạnh nhất định của các giá trị có liên quan đến nó. Nó không nghiên cứu toàn bộ phạm vi của các hệ thống giá trị. Chẳng hạn, sai sót xảy ra trong dự báo kinh tế, khi yếu tố giá trị phát huy tác dụng ở mức độ quan trọng hơn nhiều so với mức mà kinh tế học sẵn sàng cho phép. Để đưa ra một ví dụ: một nguyên tắc của kinh tế học là mọi người sẽ chỉ đồng ý rời bỏ một thứ gì đó khi họ có thể thay thế nó bằng một thứ mang lại cho họ sự hài lòng tương đương. Ở đây có thể có sự phản đối rằng điều này không phải lúc nào cũng đúng. Đôi khi chúng ta có thể trải nghiệm cảm giác hài lòng khi rời bỏ một thứ gì đó mà không nhận lại được thứ gì cụ thể, chẳng hạn như khi cha mẹ vì yêu con cái mà tặng chúng một thứ gì đó mà không mong nhận lại điều gì. Họ cảm thấy hài lòng, có lẽ còn hơn cả việc họ nhận được thứ gì đó, nguyên nhân tất nhiên là tình yêu thương mình dành cho con cái. Nếu con người có thể mở rộng tình yêu thương với người khác, không chỉ giới hạn trong gia đình mình mà cảm thấy yêu thương tất cả những người khác thì họ có thể rời bỏ mọi thứ trong khi không nhận lại được gì mà vẫn cảm thấy hài lòng hơn trước. Họ không những không bị mất đi sự hài lòng hay chỉ nhận được một khoản tiền đền bù mà còn thực sự cảm thấy hài lòng hơn nhiều. Đây cũng là một ví dụ về việc các giá trị có thể ảnh hưởng đến các vấn đề kinh tế như thế nào.

Một nguyên tắc kinh tế khác phát biểu rằng khi giá giảm, người ta mua nhiều hơn; khi giá tăng, người ta mua ít hơn. Đó thường là cách mọi việc diễn ra. Nếu giá giảm, sức mua của người dân sẽ tăng. Họ mua nhiều hơn và số lượng người tiêu dùng tăng lên. Nhưng điều đó không phải lúc nào cũng đúng. Nếu người ta biết rằng các thành viên của một xã hội có xu hướng phô trương và khoe khoang của cải như biểu tượng của địa vị, thì người ta có thể lợi dụng xu hướng đó để khiến mọi người nghĩ rằng hàng hóa đắt tiền là hợp thời trang. Mọi người tin rằng bất cứ ai có thể mua được món đồ đắt tiền như vậy sẽ nổi bật giữa đám đông và là thành viên của xã hội thượng lưu. Sau đó, điều xảy ra là người ta càng tăng giá thì càng có nhiều người mua hàng hóa đó vì mong muốn trở thành người thời trang hoặc được đồng nhất với một nhóm xã hội nhất định.

Trên thực tế, có rất nhiều ví dụ mà chính kinh tế học sử dụng để chứng minh các giá trị của một xã hội quyết định giá cả như thế nào, một trong số đó liên quan đến hai người đàn ông bị đắm tàu trên một hoang đảo. Một người có một bao gạo khô, người kia có một trăm chiếc vòng cổ bằng vàng. Thông thường, chỉ một sợi dây chuyền vàng thôi cũng đủ, quá đủ để mua cả một bao gạo khô. Nhưng giờ đây hai người đã mắc kẹt trên một hòn đảo mà không có phương cách gì để thoát khỏi hay không có sự đảm bảo nào sẽ có tàu giải cứu họ. Giá trị của hàng hóa thay đổi. Giờ đây người có gạo có thể mua tất cả một trăm chiếc vòng vàng chỉ với một phần gạo, hoặc anh ta cũng có thể từ chối cuộc thương lượng này.

Tuy nhiên, điều tôi muốn chỉ ra ở đây là kinh tế học phải phân biệt giữa các loại nhu cầu khác nhau và giải quyết vấn đề chất lượng của nhu cầu. Kinh tế trả lời rằng đó không phải việc của chúng tôi, chúng tôi chỉ quan tâm đến nhu cầu, chất lượng của nó không liên quan. Nhưng trên thực tế, chất lượng của nhu cầu hoặc ham muốn có ảnh hưởng đến kinh tế. Trong ví dụ nêu trên, ngoài giao dịch trên còn có những khả năng khác. Người đàn ông đeo dây chuyền vàng có thể lợi dụng lúc chủ gạo không có mặt để ăn trộm một ít hoặc có thể giết chủ để lấy cả bao. Mặt khác, hai người có thể trở thành bạn bè và giúp đỡ lẫn nhau nên không cần phải mua bán hay trao đổi gì cả; họ có thể chia nhau cơm cho đến khi hết. Nó có thể xảy ra theo bất kỳ cách nào trong số này. Vì vậy, các yếu tố như đạo đức cá nhân hoặc cảm xúc như lòng tham và sự sợ hãi có thể ảnh hưởng đến kết quả kinh tế. Một nhu cầu không chùn bước trước bạo lực hoặc trộm cắp sẽ có kết quả khác với nhu cầu nhận ra những hạn chế về mặt đạo đức.

Để chứng minh rằng kinh tế học là một môn khoa học, nó mang tính khách quan và không bị lẫn lộn với những cảm xúc và giá trị chủ quan, đôi khi các nhà kinh tế sẽ đưa ra nhiều ví dụ khác nhau để chống lưng cho lập luận của mình. Chẳng hạn, họ nói rằng một chai rượu và một bát mì Trung Hoa có thể có giá trị kinh tế như nhau, hoặc việc đi hộp đêm có thể đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế hơn là đi nghe Pháp thoại. Đây là những sự thật theo kinh tế học. Họ không tính đến bất kỳ giá trị nào. Kinh tế học sẽ không nhìn vào lợi ích hoặc tác hại đến từ một hàng hóa, hoạt động, sản xuất, tiêu dùng hoặc thương mại cụ thể. Những thói xấu liên quan đến việc thường xuyên đến hộp đêm cũng như kiến thức và trí tuệ phát sinh từ việc nghe Pháp thoại đều không phải là mối quan tâm của nó. Những người khác có thể nhìn mọi thứ từ những quan điểm đó nhưng kinh tế học sẽ không quan tâm đến điều này.

Xem xét kỹ lưỡng các trường hợp dẫn đầu trên, người ta thấy rằng bản chất khoa học và tính khách quan của kinh tế học còn khá hạn hẹp và hời hợt. Các nhà kinh tế chỉ xem xét một giai đoạn ngắn của quá trình nhân quả tự nhiên, như thể chỉ ra phần mà họ quan tâm mà không chú ý đến toàn bộ dòng nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên). Đây là một đặc điểm của kinh tế học trong thời đại công nghiệp khiến nó không thể trở thành một khoa học đích thực và không có tính khách quan thỏa đáng. Tuy nhiên, một số xu hướng hiện đại nhất định dường như chỉ ra rằng kinh tế học đang bắt đầu mở rộng tầm nhìn của mình để bao quát nhiều hơn về quá trình nhân quả, và do đó đang chuyển động phù hợp với thực tế.

Điều đầu tiên cần xem xét là chi phí kinh tế nào có thể phát sinh do tác hại đến sức khỏe của người tiêu dùng. Chúng ta hãy quay lại ví dụ về chai rượu và bát mì Trung Hoa. Chúng ta có thể thấy rằng, mặc dù giá thị trường của chúng có thể giống nhau nhưng chi phí kinh tế của chúng không bằng nhau. Chai rượu có thể gây hại cho sức khỏe con người, buộc người đó phải tốn tiền chữa bệnh. Nhà máy chưng cất rượu có thể đã thải khói có mùi hôi vào không khí, có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe, chẳng hạn như gây ra cảm lạnh. Ô nhiễm môi trường gây ra sự suy thoái tự nhiên có ảnh hưởng đến kinh tế. Nó có thể buộc chính phủ phải dành nguồn lực để khắc phục các vấn đề môi trường. Kết quả là người uống rượu có thể bị đâm xe, gây ra nhiều tổn thất kinh tế hơn. Và tất nhiên có những tác động xã hội bất lợi: uống rượu có thể gây ra phạm pháp và cái giá phải trả cho việc phạm tội là rất cao. Ngoài ra, say rượu sẽ có nghĩa là người uống rượu sẽ có thiếu tập trung, khiến họ làm việc kém hiệu quả.

Mỗi điểm trên đều liên quan đến kinh tế. Chúng ngụ ý sự cần thiết phải xem xét chi phí kinh tế ở quy mô rộng hơn nhiều so với tình hình hiện tại chứ không chỉ xét về giá thị trường. Hiện nay có xu hướng đưa chi phí môi trường vào các tính toán chi phí kinh tế. Một số nhà kinh tế thậm chí còn tính chúng vào giá thành phẩm. Nhưng điều này thực sự là chưa đủ. Trong trường hợp chai rượu, ngoài chi phí môi trường còn có chi phí xã hội, đạo đức và sức khỏe (tức là tội phạm, hiệu quả sản xuất, v.v.) đều có ý nghĩa kinh tế.

4. Thiếu sự hiểu biết rõ ràng về bản chất con người

Sau khi đã chỉ ra kinh tế học có liên quan như thế nào đến các vấn đề khác, đặc biệt là vấn đề giá trị, và nó bị ảnh hưởng như thế nào bởi những yếu tố khác, bây giờ chúng ta có thể chuyển sang một vấn đề quan trọng—vấn đề hiểu biết về bản chất con người. Đây là một vấn đề cực kỳ quan trọng. Mọi ngành học đều phải được xây dựng trên sự hiểu biết về bản chất con người. Nếu bất kỳ môn học nào có sai sót trong cách hiểu của mình thì nó sẽ không thể đạt được sự thật trọn vẹn và không thể thực sự giải quyết được các vấn đề của nhân loại. Vậy kinh tế học, Phật giáo và kinh tế học Phật giáo hiểu về vấn đề bản chất con người thế nào? Tôi đã đề cập rằng kinh tế học xem xét các hiện tượng nhu cầu hoặc mong muốn của con người, nhưng chỉ xem xét một mặt của nó mà từ chối tính đến chất lượng của nhu cầu. Nếu thực sự đúng như vậy và chất lượng của nhu cầu là một hiện tượng tự nhiên thì điều đó có nghĩa là kinh tế học từ chối xem xét một sự thật nằm trong bản chất của sự vật. Vì vậy, người ta phải đặt câu hỏi sâu hơn về kinh tế học xem làm thế nào nó có thể trở thành một ngành học và làm thế nào nó có thể đưa ra câu trả lời hoàn chỉnh cho các vấn đề của con người. Cách bào chữa duy nhất có thể là kinh tế học chỉ là một ngành chuyên môn, cần phải hợp tác với các ngành liên quan khác.

a. Ham muốn

Tôi muốn bắt đầu đề cập đến chủ đề bản chất con người bằng cách xem xét nhu cầu hoặc ham muốn. Kinh tế học hiện đại và Phật giáo đều đồng ý rằng nhân loại có những mong muốn vô hạn. Có rất nhiều câu nói của Đức Phật liên quan đến điểm này, ví dụ: natthi taṇhāsamā nadī—sông nào bằng sông ái (Dh.2511). Sông đôi khi có thể lấp đầy bờ nhưng ham muốn của con người không bao giờ cạn. Ở một số chỗ trong kinh điển Phật giáo có nói rằng “giả sử mưa xuống bạc vàng cũng chẳng làm thỏa mãn lòng tham dục” (Dh.1862). Ở chỗ khác, Đức Phật nói rằng nếu người ta có thể biến đổi cả một ngọn núi thành quặng vàng bằng phép thuật thì điều đó vẫn không mang lại sự hài lòng trọn vẹn và lâu dài cho dù chỉ một người. Vì vậy, có một số lượng lớn giáo lý trong truyền thống Phật giáo đề cập đến bản chất vô hạn của mong muốn của con người. Ở đây tôi muốn kể lại một câu chuyện xuất hiện trong Jātaka3.

Kinh pháp cú (Dhammapada) số 251. HT.Thích Thiện Siêu và HT. Thích Minh Châu.

Kinh pháp cú (Dhammapada) số 186. HT.Thích Thiện Siêu và HT. Thích Minh Châu.

Kinh bản sinh, hay truyện về tiền thân Đức Phật.

Trong quá khứ xa xưa có một vị vua tên là Mandhatu. Ông là một người cai trị rất quyền lực, một vị hoàng đế được biết đến trong truyền thuyết vì đã sống rất lâu. Mandhatu có tất cả những phẩm chất hạng nhất của một vị đế vương; ông là một con người đặc biệt có mọi thứ mà bất cứ ai cũng mong ước: ông là hoàng tử trong 84.000 năm, sau đó là người thừa kế trong 84.000 năm, và sau đó là hoàng đế trong 84.000 năm. Một ngày nọ, sau khi làm hoàng đế được 84.000 năm, vua Mandhātu bắt đầu có dấu hiệu buồn chán. Khối tài sản khổng lồ mà ông sở hữu không còn đủ để thỏa mãn ông. Các cận thần của nhà vua thấy có điều gì đó không ổn liền hỏi Bệ hạ bị bệnh gì. Ông trả lời: “Sự giàu có và lạc thú mà ta tận hưởng ở đây thật tầm thường: hãy cho ta biết, có nơi nào vượt trội (/ưu thắng) hơn thế này không?” “Cõi trời, thưa bệ hạ”, các cận thần trả lời. Giờ đây, một trong những báu vật của Nhà vua là cakkaratana, một vật thể ma thuật hình bánh xe có thể chở ông đến bất cứ đâu theo lệnh của mình. Vì thế Mandhātu đã dùng nó để đưa ông đến cõi trời của Tứ Đại Thiên Vương. Chính Tứ Đại Thiên Vương đã ra đón và khi biết được mong muốn của ông, đã mời ông tiếp quản toàn bộ cõi trời của mình.

Vua Mandhātu cai trị cõi trời của Tứ Đại Thiên Vương trong một thời gian rất dài cho đến một ngày ông lại bắt đầu cảm thấy buồn chán. Chẳng còn đủ nữa, niềm vui có thể bắt nguồn từ sự giàu có và thú vui của cõi đó cũng không thể làm ông thỏa mãn được nữa. Ông bàn luận với các thị giả của mình và được thông báo về những thú vui vượt trội của cõi trời Tāvatiṃsā. Vì vậy, Vua Mandhātu đã dùng cakkaratana của mình và lên cõi trời Tāvatiṃsā, nơi ông được chào đón bởi người cai trị của nó, Thần Indra, người đã nhanh chóng tặng ông một nửa vương quốc của mình.

Vua Mandhātu cai trị Thiên đường Tāvatiṃsā cùng với Thần Indra trong một thời gian rất dài nữa cho đến khi Thần Indra cạn kiệt công đức đã giúp ông duy trì địa vị của mình và được thay thế bởi Thần Indra mới. Thần Indra mới đã cai trị cho đến khi ông ta sống đến mãn hạn tuổi thọ của mình. Tổng cộng có ba mươi sáu vị thần Indras đến và đi trong khi vua Mandhātu tiếp tục tận hưởng những thú vui ở địa vị của mình. Rồi cuối cùng, ông bắt đầu cảm thấy bất mãn, một nửa thiên đường không đủ, ông muốn thống trị tất cả. Vì vậy, vua Mandhātu bắt đầu nghĩ cách giết Thần Indra và phế truất ông ta. Nhưng con người không thể giết được Thần Indra; bởi vì con người không thể giết các vị thần, và vì vậy mong muốn của ông không được thực hiện. Việc vua Mandhātu không thể thỏa mãn niềm khao khát này đã làm mục nát sự tồn tài của ông và khiến quá trình lão hóa bắt đầu. Đột nhiên ông rơi từ cõi trời Tāvatiṃsā xuống trần gian, nơi ông ta đổ bộ xuống một vườn cây ăn quả với một tiếng vang động lớn. Khi những người làm việc trong vườn cây ăn trái thấy một vị vua vĩ đại đến, một số người đã đến thông báo cho Cung điện, và những người khác đã tạo ra một chiếc ngai vàng tạm thời cho ông ngồi. Lúc này vua Mandhātu đang cận kề cái chết. Thân quyến Hoàng gia đến thăm và hỏi liệu ông có lời cuối cùng nào không. Vua Mandhātu tuyên bố về sự vĩ đại của mình. ông ta nói với họ về quyền lực và sự giàu có to lớn mà ông sở hữu trên trái đất và trên cõi trời, nhưng rồi cuối cùng thừa nhận rằng mong muốn của ông vẫn chưa được thực hiện.

Câu chuyện về Vua Mandhatu kết thúc ở đó. Nó cho thấy Phật giáo chia sẻ quan điểm với kinh tế học, rằng nhu cầu của con người là vô tận. Nhưng Phật giáo không dừng lại ở đó. Nó tiếp tục nói về hai đặc điểm của bản chất con người có liên quan đến kinh tế cần được hiểu rõ. Đầu tiên, Phật giáo phân biệt hai loại mong muốn hay ham muốn:

  • (a) ham muốn có được trải nghiệm khoái lạc (cả thể chất và tinh thần) cùng với ham muốn những thứ nuôi dưỡng ý thức tự ngã, tức là sự thèm muốn (tham lam) được gọi theo thuật ngữ Phật giáo là taṇhā,

  • (b) mong muốn có được hạnh phúc thực sự hay chất lượng cuộc sống, (chanda).

Điểm thứ hai, cũng liên quan đến nguyên tắc về ham muốn này, đó là Phật giáo cho rằng chúng ta là những sinh vật có khả năng rèn luyện và phát triển bản thân. Mong muốn về hạnh phúc hay chất lượng cuộc sống biểu thị mong muốn phát triển bản thân hay nói cách khác là sự phát triển tiềm năng của con người. Do đó, một điểm thiết yếu của sự phát triển con người là chuyển hướng hoặc hoán đổi các ham muốn về những thứ mang lại trải nghiệm khoái lạc và nuôi dưỡng ý thức về bản thân thành ham muốn có được hạnh phúc thực sự. Trong khi loại ham muốn đầu tiên là không giới hạn thì loại thứ hai thì có, và do đó có xu hướng thường xuyên xung đột với loại thứ nhất, chẳng hạn như trong vấn đề ăn uống. Khi chúng ta ăn, cả hai loại ham muốn đều hiện diện, mặc dù đối với hầu hết mọi người, ham muốn về hạnh phúc thường không có ý thức; chúng ta có xu hướng chỉ ý thức được sự ham muốn có được trải nghiệm lạc thú.

Tại sao con người lại ăn? Chắc chắn là để nuôi dưỡng cơ thể, mang lại cho cơ thể sức lực và sức khỏe tốt. Nhưng mong muốn nảy sinh trong con người tâm trí là để thưởng thức, thức ăn ‘ngon’ về mặt hương vị. Mong muốn này có thể trái ngược với mong muốn về hạnh phúc và thậm chí phá hủy chất lượng cuộc sống. Mong muốn trải nghiệm những hương vị thơm ngon khiến chúng ta tìm kiếm những món ăn ngon nhất và món ăn ngon nhất có thể chứa các chất phụ gia nhân tạo làm tăng mùi, màu và vị của thực phẩm nhưng lại có hại cho cơ thể và hạnh phúc của chúng ta. Ngoài ra, những người ăn chủ yếu vì vị giác thường ăn uống không điều độ. Họ có thể ăn quá nhiều đến nỗi sau đó họ bị chứng khó tiêu và đầy hơi. Về lâu dài, họ có thể trở nên thừa cân, điều này còn nguy hiểm cho sức khỏe. Thực phẩm mang cho cơ thể khoẻ mạnh thường khá rẻ nhưng thực phẩm được tiêu dùng để thỏa mãn nhu cầu về hương vị, hoặc thực phẩm đang là mốt hiện nay, có thể đắt một cách không cần thiết. Những người không ngừng theo đuổi cơn thèm ăn của mình thậm chí có thể chi tới hàng trăm đô la mỗi ngày cho đồ ăn.

Vì thế hai loại ham muốn này thường xuyên xung đột với nhau. Con người càng tìm cách thỏa mãn ham muốn lạc thú thì họ càng hủy hoại hạnh phúc thực sự của mình. Nguyên tắc này không chỉ áp dụng cho việc tiêu thụ thực phẩm mà còn áp dụng cho mọi hoạt động của con người, thậm chí cả việc sử dụng công nghệ. Chúng ta phải học cách phân biệt giữa hai loại ham muốn và sau đó suy ngẫm về chúng một cách khôn ngoan.

Nguyên tắc về ham muốn dẫn chúng ta đến chủ đề giá trị, vì ham muốn (hoặc nhu cầu) tạo ra giá trị. Bản chất hai mặt của ham muốn tạo ra hai loại giá trị, có thể được gọi là giá trị đích thực và giá trị nhân tạo. Giá trị thực sự của một thứ gì đó được quyết định bởi khả năng đáp ứng mong muốn về hạnh phúc, trong khi đối với giá trị nhân tạo là khả năng thỏa mãn ham muốn về khoái lạc. Ở bất kỳ đồ vật nào, giá trị đích thực sẽ có xu hướng bị lấn át bởi giá trị nhân tạo được tạo ra từ lòng tham ái và tự phụ. Ham muốn những thứ hấp dẫn về khoái lạc hoặc những thứ thời thượng được dùng làm biểu tượng địa vị cùng với những giá trị và định kiến phổ biến đều xô đẩy cách chúng ta đánh giá giá trị của mọi thứ.

b. Tiêu dùng

Vấn đề tiêu dùng cũng tương tự như vấn đề giá trị. Chúng ta phải phân biệt loại ham muốn nào mà việc tiêu dùng của chúng ta muốn thỏa mãn. Đó là để đáp ứng nhu cầu về những thứ có giá trị đích thực, hay để tận hưởng những thú vui do giá trị giả tạo mang lại.

Tiêu dùng có thể được cho là sự hoàn thành của hoạt động kinh tế của con người, nhưng ý nghĩa mà lý thuyết kinh tế trong thời đại công nghiệp và lý thuyết kinh tế của Phật giáo gán cho nó là không giống nhau. Tuy cả hai đều đồng ý rằng tiêu dùng là sự giảm bớt hoặc thỏa mãn ham muốn, từ góc độ kinh tế học, tiêu dùng được định nghĩa đơn giản là việc sử dụng hàng hóa và dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu. Bây giờ chúng ta hãy nhìn vào kinh tế học Phật giáo. Nó định nghĩa việc tiêu dùng đúng đắn là việc sử dụng hàng hóa và dịch vụ để thỏa mãn mong muốn về hạnh phúc thực sự. Nói cách khác, nó nói rằng việc tiêu dùng phải có mục tiêu và mục đích.

Kinh tế học thời đại công nghiệp nói rằng nhu cầu dẫn đến tiêu dùng dẫn đến sự hài lòng, và thế là xong, không cần biết chuyện gì xảy ra sau đó. Theo quan điểm này, tiêu dùng có thể là bất cứ thứ gì miễn là nó mang lại sự hài lòng. Kinh tế học không xem xét liệu hạnh phúc của con người có bị ảnh hưởng xấu bởi việc tiêu dùng đó hay không. Phật giáo đồng ý với khái niệm cơ bản về tiêu dùng nhưng nói thêm rằng hạnh phúc của con người phải được tăng trưởng nhờ sự thỏa mãn nhu cầu. Tiêu dùng phải lấy chất lượng cuộc sống làm mục tiêu. Đây là sự khác biệt về quan điểm.

c. Công việc (work) và việc làm việc (working)

'Công việc' và 'việc làm việc' cũng là những thuật ngữ được hiểu theo những cách khác nhau bởi kinh tế học thông thường và Phật giáo, và một lần nữa sự khác biệt có liên quan đến hai loại ham muốn. Trong trường hợp công việc đó là gắn liền với mong muốn có được hạnh phúc thực sự (bao gồm cả mong muốn phát triển bản thân và phát triển tiềm năng con người) thì kết quả của công việc sẽ tương ứng ngay lập tức và trực tiếp với ham muốn đó. Công việc được thực hiện với mong muốn đạt được kết quả của công việc và do đó mang lại sự hài lòng. Tuy nhiên, nếu công việc được thực hiện với ham muốn những thứ mang lại cho người ta khoái lạc thì bản thân kết quả của công việc không phải là điều người ta mong muốn. Chúng chỉ đơn thuần là những điều kiện cần thiết để có được những thứ mà người ta mong muốn. Khi đó, công việc được coi là một vấn đề tất yếu không thể tránh khỏi.

Sự khác biệt giữa hai thái độ làm việc nằm ở chỗ trường hợp đầu tiên công việc được coi là một hoạt động có khả năng thỏa mãn và trong trường hợp thứ hai là một hoạt động (nhàm chán) cần thiết. Lý thuyết kinh tế phương Tây hiện đại dựa trên quan điểm cho rằng công việc là thứ mà chúng ta buộc phải làm để có tiền tiêu dùng. Khi không làm việc, hay có “thời gian rảnh rỗi”, là lúc chúng ta có thể cảm nhận được hạnh phúc và sự hài lòng. Công việc và sự hài lòng được coi là những nguyên tắc riêng biệt và đối lập nhau. Tuy nhiên, qua nhiều thế kỷ, người phương Tây đã thấm nhuần lòng yêu công việc và khao khát tri thức nên có xu hướng làm việc và học tập với sự quyết tâm và cống hiến, bất chấp những quan niệm tiêu cực về công việc. Nhưng khi một xã hội thiếu nền tảng văn hóa vững chắc đó coi công việc là điều kiện để kiếm được tiền, thì sẽ có những tác động bất lợi đối với công việc, nền kinh tế, cuộc sống cá nhân và toàn xã hội.

Để đưa ra một ví dụ về hai loại công việc khác nhau, chúng ta hãy giả sử rằng ông Smith là một nhà nghiên cứu. Ông đang tìm cách khám phá các phương pháp tự nhiên để kiểm soát dịch hại để sử dụng trong nông nghiệp. Ông Smith thích công việc của mình vì những điều ông mong muốn từ nó, kiến thức và ứng dụng của nó, là thành quả trực tiếp từ nghiên cứu của ông. Những tiến bộ ông đạt được và sự hiểu biết ngày càng tăng mà ông trải nghiệm, giúp ông có một sự hài lòng liên tục. Kiến thức ngày càng phát triển và sự hiểu biết rõ ràng của ông liên tục làm tăng thêm niềm vui mà ông Smith có được từ công việc của mình.

Ông Jones là nhân viên nghiên cứu cùng lĩnh vực với ông Smith. Ông Jones làm việc vì tiền và sự thăng tiến. Như vậy bản thân kết quả của công việc, kiến thức và ứng dụng thực tế của nó không phải là kết quả mà ông mong muốn. Chúng chỉ đơn thuần là phương tiện để cuối cùng ông có thể đạt được điều mình thực sự mong muốn, đó là tiền bạc và địa vị. Ông Jones không thích công việc của mình, ông ấy làm nó vì cảm thấy mình phải làm vậy.

Từ cuộc thảo luận về bản chất của công việc, có thể thấy rằng công việc theo nghĩa Phật giáo, được thực hiện nhằm đáp ứng mong muốn hạnh phúc, có thể mang lại sự hài lòng liên tục. Mọi người có thể tận hưởng công việc của họ. Trong thuật ngữ Phật giáo, nó được gọi là làm việc với “chanda”. Nhưng làm việc với mong muốn đạt được lạc thú này hay lạc thú khác thì được gọi là làm việc với ái dục. Những người làm việc với tham ái có ham muốn tiêu thụ, nên trong khi vẫn làm việc (và do đó chưa tiêu thụ) họ không cảm thấy thỏa mãn và do đó không thể tận hưởng công việc của mình.

Chúng ta có thể phản đối rằng không phải tất cả các loại công việc đều mang lại cơ hội tận hưởng và hài lòng. Trở ngại không phải chỉ là sự ham muốn lạc thú. Nhiều công việc, đặc biệt là trong ngành công nghiệp, rất buồn tẻ, tầm thường hoặc dường như vô nghĩa. Ở những người khác, điều kiện thể chất có thể khó khăn, thậm chí nguy hiểm cho sức khỏe. Trong những trường hợp như vậy, sự buồn chán, thất vọng và chán nản của người lao động có tác động tiêu cực đến năng suất. Kinh tế học Phật giáo chỉ ra sự cần thiết phải tạo việc làm và tổ chức sản xuất theo cách tối đa hóa cơ hội cho người lao động thực hiện mong muốn hạnh phúc của họ. Tuy nhiên, điểm cơ bản vẫn có giá trị. Thái độ mà chúng ta có đối với công việc của mình, bất kể nó là gì, là yếu tố điều hòa chính ảnh hưởng của nó đối với chúng ta.

Về các chủ đề được đề cập ở trên, tức là bản chất của ham muốn, giá trị và công việc, Phật giáo chấp nhận thực tế rằng việc con người có tham ái (taṇhā) là điều tự nhiên. Nhưng đồng thời Phật giáo thấy rằng con người cũng có ham muốn về chất lượng cuộc sống hay hạnh phúc, và loại mong muốn thứ hai này là nhu cầu thực sự cố hữu của con người. Có ham muốn hoàn thiện bản thân và hướng tới những điều tốt đẹp. Do đó, Phật giáo không phủ nhận lòng khao khát mà đúng hơn là hướng tới việc chuyển hóa nó càng nhiều càng tốt thành mong muốn được hạnh phúc, và biến ước muốn được hạnh phúc đó dẫn đến sự hoàn thiện bản thân. Sự thay đổi ý nghĩa này có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều vấn đề khác, chẳng hạn như các định nghĩa về của cải, hàng hóa và dịch vụ, cạnh tranh và hợp tác. Khi nền tảng của sự vật thay đổi, mọi thứ đều thay đổi.

d. Cạnh tranh & Hợp tác

Quan điểm của kinh tế học cho rằng bản chất con người là cạnh tranh. Mặt khác, Phật giáo cho rằng bản chất con người là cạnh tranh và hợp tác, đồng thời phân biệt giữa hợp tác thực sự và hợp tác giả tạo.

Cạnh tranh là điều tự nhiên. Khi phấn đấu để thỏa mãn ham muốn lạc thú, chúng ta sẽ cạnh tranh quyết liệt, bởi vì những lúc như vậy chúng ta muốn giành được càng nhiều càng tốt cho bản thân và chúng ta không cảm thấy đủ hay thoả mãn. Nếu chúng ta có thể có được đối tượng mong muốn đó cho riêng mình và không ai khác có được nó thì càng tốt. Sự cạnh tranh không thể tránh khỏi rất khốc liệt; đó là điều tự nhiên đối với tâm trí bị taṇhā điều khiển. Tuy nhiên, bản năng cạnh tranh có thể được sử dụng để thúc đẩy sự hợp tác. Người ta có thể tập hợp tất cả các thành viên của một nhóm cụ thể lại với nhau để cạnh tranh với một nhóm khác. Ví dụ, người ta có thể khơi dậy hoặc khuyến khích người dân của một quốc gia có tinh thần dân tộc và hợp tác từ chối mua hàng nước ngoài. Nhưng sự hợp tác đó hoàn toàn dựa trên sự cạnh tranh. Kích thích bản năng cạnh tranh theo cách làm nảy sinh sự hợp tác ở một cấp độ cụ thể là điều mà Phật giáo gọi là sự hợp tác giả tạo.

Sự hợp tác thực sự là sự hợp tác diễn ra trong nỗ lực đáp ứng mong muốn về chất lượng cuộc sống. Khi con người mong muốn hạnh phúc thực sự của mình, họ có thể hợp tác để giải quyết các vấn đề của nhân loại. Tiềm năng hợp tác thực sự nằm trong bản chất con người. Một hình thức phát triển con người đòi hỏi phải chuyển hướng năng lượng của nhân loại từ cạnh tranh sang nỗ lực hợp tác để giải quyết các vấn đề mà thế giới đang phải đối mặt. Như vậy, đối với những vật có giá trị đích thực, chúng ta có thể hợp tác, nhưng đối với những vật có giá trị giả tạo, chúng ta sẽ cạnh tranh bằng tất cả sức lực của mình để có được địa vị hoặc lợi ích cá nhân mà chúng ta khao khát.

e. Sự bằng lòng và chủ nghĩa tiêu dùng

Ở điểm này tôi muốn giới thiệu một vài nhận xét về chủ đề sự bằng lòng. Mặc dù nó không hoàn toàn phù hợp với lập luận được đưa ra ở đây, nhưng nó có liên quan, và vì sự thoả mãn là một đức tính thường bị hiểu lầm nên có vẻ nó như đáng được thảo luận.

Câu hỏi về sự bằng lòng liên quan đến chất lượng cuộc sống và hai loại mong muốn của con người đã được thảo luận ở trên. Rõ ràng là những người biết bằng lòng có ít ham muốn hơn những người bất mãn. Tuy nhiên, một định nghĩa chính xác về thuật ngữ này phải khẳng định rằng sự bằng lòng chỉ hàm ý sự vắng mặt của những ham muốn giả tạo, tức là ham muốn lạc thú. Ham muốn về hạnh phúc thực sự vẫn còn.

Sự hiểu lầm của chúng ta về ý nghĩa của sự bằng lòng là do không phân biệt được hai loại ham muốn khác nhau. Chúng ta gộp hai loại ham muốn lại với nhau và khi đưa ra vấn đề bằng lòng, loại bỏ cả hai. Một người biết bằng lòng được coi là người không mong muốn gì cả. Đây là sai lầm của chúng ta.

Người Thái tin rằng họ có đức tính biết bằng lòng, nhưng nghiên cứu đã chỉ ra rằng họ là những người tiêu dùng cuồng nhiệt. Hai điều này không tương thích với nhau. Bạn có thấy sự mâu thuẫn không? Hoặc người Thái không bằng lòng hoặc họ không phải là những người tiêu dùng mạnh tay như người ta nói.

Một lời chỉ trích đã được đưa trước đây, có thể gọi là lời buộc tội, đó là sự bằng lòng của người dân Thái khiến họ lười biếng, thờ ơ nên cản trở đất nước tiến bộ. Nhưng một nhà bình luận cho rằng chính thiên hướng tiêu dùng và không thích sản xuất của người Thái đã cản trở sự phát triển. Vì vậy, một quan điểm cho rằng sự bằng lòng làm chậm lại sự phát triển và quan điểm khác cho rằng nguyên nhân chính là sự ham thích tiêu dùng. Dù điều nào là đúng thì chắc chắn là việc khơi dậy ham muốn của con người đối với hàng tiêu dùng không phải lúc nào cũng dẫn đến sự gia tăng sản xuất. Niềm tin, từng được chấp nhận rộng rãi, rằng sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào việc khuyến khích chi tiêu và tiêu dùng, đã không được chứng minh bằng kết quả. Ở Thái Lan, có vẻ như các vấn đề đã trở nên trầm trọng hơn—người Thái hiện nay thích tiêu dùng nhiều nhưng lại không thích sản xuất. Chúng ta chỉ nghĩ đến việc tiêu dùng hay sở hữu đồ vật chứ không nghĩ đến việc tự mình làm ra chúng. Chúng ta muốn có tất cả những thứ mà họ có ở các nước phát triển, và cảm thấy tự hào rằng chúng ta sống như người dân ở các nước đó, nhưng chúng ta không tự hào khi sản xuất những thứ đó như họ. Chính thái độ này thực sự cản trở sự phát triển. Nó chứng tỏ rằng chỉ cần khơi dậy ham muốn mà không có sự hiểu biết đúng đắn về bản chất con người thì không thể mang lại kết quả khả quan. Ham muốn tiêu dùng, một khi đã được khơi dậy, thay vì dẫn đến gia tăng sản xuất, lại dẫn đến sự hoang phí, nợ nần và tội ác: một sự phát triển trở nên tồi tệ nghiêm trọng.

Phải chăng người Thái vừa hài lòng vừa ham mê tiêu dùng? Rằng chúng ta đã rời xa sự hài lòng truyền thống và đánh đổi nó lấy những giá trị của chủ nghĩa tiêu dùng (consumerism)? Nếu đúng như vậy thì có nghĩa là khi đưa hệ thống kinh tế phương Tây vào xã hội chúng ta, chúng ta đã áp dụng sai và đang phải gánh chịu hậu quả tai hại. Trên thực tế, nếu người Thái chúng ta thực sự hài lòng theo cách đúng đắn được xác định ở trên, thì điều đó sẽ cho phép chúng ta hỗ trợ sản xuất tăng trưởng ổn định và liên tục. Con đường từ sự hài lòng đến sản xuất sẽ tương tự như con đường của các nước phương Tây, nơi Cách mạng Công nghiệp (Industrial Revolution) dựa trên đạo đức làm việc của đạo Tin Lành (Protestant).

Đạo đức làm việc của đạo Tin lành dạy về đức tính biết bằng lòng, tiết kiệm và căn cơ, đồng thời khuyến khích đầu tư tiết kiệm để tăng sản xuất. Nó dạy mọi người yêu công việc và làm việc vì công việc. Người phương Tây thời kỳ Công nghiệp Cách mạng sống với sự bằng lòng nhưng mong muốn sản xuất. Thay vì sử dụng năng lượng của mình để tiêu dùng, họ sử dụng chúng cho sản xuất nhằm thúc đẩy tiến bộ công nghiệp. Người Thái chúng ta cũng có một nền tảng tốt: chúng ta biết bằng lòng, không thích xa hoa, không bị ám ảnh bởi việc tiêu dùng, chúng ta biết tiết kiệm và sử dụng mọi thứ một cách tiết kiệm. Điều chúng ta cần làm là tạo dựng và khơi dậy lòng yêu thích công việc và khát khao thành đạt. Mong muốn như vậy sẽ dẫn đến sản xuất và mang lại kết quả trong phát triển công nghiệp. Như vậy, tóm lại, sự bằng lòng được hiểu đúng có nghĩa là cắt đứt loại ham muốn thứ nhất, ham muốn giả tạo về lạc thú giác quan nhưng tích cực khuyến khích và hỗ trợ ham muốn về chất lượng cuộc sống.

Trong Phật giáo, sự bằng lòng luôn đi đôi với nỗ lực. Mục đích của sự bằng lòng được coi là để tiết kiệm thời gian và sức lực đã mất khi chiều theo những ham muốn ích kỷ, đồng thời sử dụng nó để tạo ra và nuôi dưỡng hạnh phúc thực sự.

Có rất nhiều điều cần phải nói liên quan đến sản xuất: đó là một chủ đề lớn. Việc xem xét chủ thể sản xuất không chỉ đòi hỏi sự hiểu biết về sự tồn tại của con người mà còn đòi hỏi một sự xem xét trên phạm vi rộng về toàn bộ tự nhiên. Trong kinh tế học, từ “sản xuất” có thể đánh lừa. Chúng ta có xu hướng nghĩ rằng thông qua sản xuất, chúng ta tạo ra những thứ mới, trong khi thực tế chúng ta chỉ thực hiện những thay đổi về trạng thái. Chúng ta biến đổi một chất hoặc dạng năng lượng thành một dạng khác. Những biến đổi này đòi hỏi phải tạo ra một trạng thái mới bằng cách phá hủy một trạng thái cũ. Vì vậy, sản xuất hầu như luôn đi kèm với sự phá hủy.

Nếu kinh tế học là một môn khoa học đích thực thì nó sẽ không xem việc sản xuất một cách biệt lập. Sản xuất bao gồm sự phá hủy và trong một số trường hợp sự phá hủy có thể chấp nhận được, ở những trường hợp khác thì không. Do đó, điểm cần cân nhắt liên quan đến sản xuất kinh tế là liệu trong trường hợp giá trị của thứ được sản xuất ra được bù đắp bằng giá trị của thứ bị phá hủy thì việc sản xuất có hợp lý hay không. Trong một số trường hợp, chúng ta có thể phải ngừng sản xuất để duy trì chất lượng cuộc sống.

Vì vậy, trong kinh tế học hiện đại, việc chỉ xem xét ở khía cạnh sản xuất hay phi sản xuất là không chính xác. Phi sản xuất có thể là một hoạt động kinh tế hữu ích. Chúng ta phải xem xét chủ thể sản xuất bằng cách chia nó thành hai loại:

  • (a) sản xuất được bù đắp bằng sự phá hủy, ví dụ như kéo theo sản xuất hủy hoại tài nguyên thiên nhiên và suy thoái môi trường,
  • (b) sản xuất để hủy diệt, ví dụ như sản xuất vũ khí.

Đôi khi (a) đòi hỏi việc phi sản xuất, và (b) luôn luôn là sự lựa chọn tốt hơn.

Có việc sản xuất mang đến kết quả tích cực và có việc sản xuất mang lại kết quả tiêu cực; sản xuất làm phong phú chất lượng cuộc sống và điều đó (cũng) phá hủy nó.

Trong kinh tế học thời đại công nghiệp, thuật ngữ sản xuất được hiểu rất hẹp. Người ta cho rằng nó chỉ liên quan đến những thứ có thể mua và bán được—đó là nền kinh tế thị trường. Vì vậy, nếu tôi làm một cái bàn và một cái ghế ở tu viện của mình rồi tự mình sử dụng, nói về mặt kinh tế thì tôi chưa sản xuất được gì cả. Một diễn viên hài chuyên nghiệp lên sân khấu và kể chuyện cười. Anh ấy giúp khán giả thư giãn và mang lại cho họ khoảng thời gian vui vẻ. Điều này được coi là mang lại hiệu quả kinh tế vì tiền được trao tay. Tuy nhiên, một người làm việc trong văn phòng lại có tính tình rất vui vẻ, luôn nói và làm những điều khiến những người xung quanh vui vẻ và sảng khoái, để đồng nghiệp của họ không bị căng thẳng (và cảm thấy không cần phải đi gặp diễn viên hài chuyên nghiệp), không được coi là đã sản xuất bất cứ điều gì.

Chúng ta không bao giờ xem xét cái giá kinh tế của hành động và lời nói liên tục tạo ra căng thẳng ở nơi làm việc, do đó những người bị ảnh hưởng phải tìm cách giảm bớt nó bằng những thú vui như đi xem diễn viên hài. Lấy một ví dụ khác: một cuộc đấu bò, trong đó người ta trả tiền để xem những con bò đực bị giết, được gọi là sản xuất kinh tế. Một đứa trẻ giúp một người già qua đường thì không.

Hãy suy nghĩ một chút về các trường hợp được đề cập ở trên. Đó là những ví dụ cho thấy sự hạn hẹp của tư tưởng kinh tế và định nghĩa của nó về sản xuất. Kinh tế học Phật giáo mở rộng tư duy của mình một cách rộng rãi hơn. Liên quan đến vấn đề này, nếu tìm kiếm “bàn tay vô hình” (invisible hand) của Adam Smith, người ta phải phàn nàn rằng nó không hoạt động ở mọi nơi. Các câu hỏi về sự giàu có và tăng trưởng kinh tế phải được xem xét lại. Mục đích thực sự của tăng trưởng kinh tế là gì? Chắc chắn nó phải là để đảm bảo sự gia tăng chất lượng cuộc sống.