Pháp Hoa Đề Cương
Lời giới thiệu
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta. Chúng tôi khuyến khích Thiền sinh Thích Nhật Quang phiên dịch nhằm mục đích phổ biến tài liệu Phật giáo do người Việt Nam sáng tác, còn sót lại trong những bản văn chữ Hán.
Phật tử Việt Nam rất sùng mộ đọc tụng kinh Pháp Hoa, mà rất ít người hiểu được huyền chỉ của kinh. Vì thế phổ biến được quyển Đề Cương này sẽ giúp nhiều Phật tử thấy được chỗ cao siêu thâm áo của kinh. Thường trì tụng mà không hiểu được lý kinh thì công đức đâu được là bao. Đọc kinh mà thâm được lý, thật là người đi đêm được ngọn đuốc sáng lo gì sa hầm sụp hố. Công đức của người tụng kinh thâm đạt lý thú thật không sao kể xiết.
Với bản nguyện xương minh Phật giáo nước nhà, cùng phá dẹp thành trì mê lầm đang ngăn lấp con đường Chánh giác của hàng Phật tử, nên chúng tôi ghi vào đây vài lời giới thiệu với độc giả.
THÍCH THANH TỪ
Lời người dịch
Vào hạ năm trước, khi trao tập Đề Cương này cho tôi, Thầy tôi dạy: “Chú chịu khó đọc kỹ rồi dịch ra, để phổ biến một tài liệu quý giá của Phật Giáo Việt Nam chúng ta, cũng để đánh tan quan niệm sai lầm của một số người cho rằng: “Người nước ta thua kém người Trung Quốc”.
Sau khi nhận sách và đọc qua, thâm tâm tôi khoan khoái lạ thường. Khác nào người bệnh ngặt, được toát mồ hôi. Như kẻ lạc lối trong đêm dày, chợt gặp mục tiêu và ánh sáng. Cũng như kẻ khốn cùng, bỗng được của báu vô lượng.
Ôi thích thú, sung sướng không kể xiết !
Thật vậy, không luận người Ấn hay người Hoa, chẳng riêng Việt Nam hay Nhật Bản, mà toàn thể nhân loại, cho đến muôn loài sanh trong Pháp giới, đều có “Tri kiến Phật”, đều sẵn đủ “Trí tuệ Như Lai”. Chỉ khác nhau ở chỗ, người hữu duyên sớm nhận ra trân bảo nhà mình, đời đời giàu sang, kẻ vô phần thì Đông Tây rong ruổi, mãi mãi đói khó.
Chớ nào phải, trong biển Tỳ-lô lại nổi bất bình, trên pháp thể an tường há sanh bỉ thử...
Việt Nam chúng ta, được một vinh hạnh lớn lao vô cùng là, viên đá đầu tiên của tòa nhà Phật Giáo, đã được đặt trên lãnh thổ này từ thế kỷ thứ III. Kịp đến năm 580 TL, thì Thiền tông phát triển, dần dần đến thế kỷ thứ XI, tòa nhà Phật Giáo hoàn thành tráng lệ. Thế thì, có thể nói Phật Giáo có mặt trên xứ sở ta, cùng lúc hoặc sớm hơn Trung Quốc. Bấy giờ, chư vị Thiền đức đạo cao đức trọng lần lượt ra đời.
Những vị tích cực như Khuông Việt, Vạn Hạnh... Những vị kỳ bí như Không Lộ, Giác Hải... Những vị uyên bác như Thanh Biện, Viên Thông... Cho đến những vị siêu thoát như Thiền Lão... những vị mẫu mực như Đạo Huệ... và vô số những vị khác, hoặc ẩn hoặc hiển, cùng nêu cao ngọn đuốc trí tuệ, làm cho Cơ Thiền đã vang lừng một thuở. Chính các Ngài đã khéo léo hòa tấu khúc Tông phong thanh tao vi vút khắp sơn khê. Mãi đến thời Pháp thuộc gần đây, âm hưởng đó vẫn còn bàng bạc gội nhuần ngoài cỏ nội. Các bậc kiến tánh thâm tu quảng học như thế, vẫn tiếp tục ra đời, mà nhân vật đại biểu cho thời này là Minh Chánh thượng nhân, người làm ra Đề Cương này.
Thế nên biết: “Giọt nước dòng Tào nhuần thấm khắp nơi” vậy.
Hôm nay, con thành kính đốt nén tâm hương, dâng lên mười phương các đấng Điều Ngự, cùng lịch đại Thánh Hiền, và Minh Chánh thượng nhân, nguyện từ bi phủ giám cho con. Đồng thời, soi tỏ lòng con, khiến con sáng suốt phiên dịch Đề Cương này, hầu khêu sáng ngọn đuốc trí tuệ mà các Ngài đã nhen nhúm từ lâu.
Con cũng mong mỏi hiện tại chư Thiện tri thức, từ mẫn bổ chính cho bản dịch, để khi đến tay quý độc giả được hoàn bị hơn.
Lại nguyện mọi loài cùng dự hội Pháp Hoa, đều ngộ nhập Tri kiến Phật, hằng sống với bản thể thanh tịnh như như của mình.
TU VIỆN CHÂN KHÔNG
Đầu xuân năm Quý Sửu 1973 (PL 2517)
THÍCH NHẬT QUANG
Kính đề
Phàm lệ
Trong nguyên bản Đề Cương này, có nhiều phẩm tác giả chỉ nói tóm lược, mà không nêu rõ tên mỗi phẩm. Vì muốn tiện lợi cho việc tham khảo của quý độc giả, dịch giả tự ý ghi thêm tên mỗi phẩm, theo thứ tự của mục lục toàn kinh.
Ngoài ra, khi gặp những danh từ chuyên môn, dịch giả chú thích ra, và chỗ nào dẫn danh hiệu Phật... xin lược bớt. Như vậy, trình tự và ý thú của toàn kinh được liên tục, và quý vị sẽ theo dõi dễ dàng. Sau cùng, dịch giả dẫn thêm mục lục của toàn kinh theo bản dịch của Hòa thượng Trí Tịnh.
Cung kính dâng lên Thầy,
Người chỉ con lối sống.
NHẬT QUANG
Ba mươi năm trôi giạt,
Chả biết ta là gì !
Quay đầu trông lối cũ,
A đấy, chính ta đi !
我是誰兮不知!
回頭兮瞻故跡,
阿哩分即睊礴!
稽首
Lời dẫn tựa Pháp Hoa Đề cương
Kinh nói: “Chư Phật vì một đại sự nhân duyên xuất hiện trong đời là muốn khiến cho chúng sanh khai thị ngộ nhập tri kiến Phật”. Nhưng câu kinh trên cũng là cương lĩnh chánh yếu của toàn bộ, các nhà sớ giải lấy đó làm chỉ thú nòng cốt để giải thích rộng bộ kinh này. Do đó mới biết chư Phật nói ba câu hỏi, chín thí dụ, hội ba về một, dẫn quyền vào thật để khai thị. Đó là khiến tất cả chúng sanh biết được bản lai diện mục, gọi là tri kiến Phật để ngộ nhập nó. Xét khi Phật còn tại thế, hàng Thanh văn nghe qua hai lượt được ngộ, Phật liền thọ ký cho họ. Cho đến tất cả chúng sanh nghe qua một câu một kệ của kinh này có một niệm tùy hỷ, Phật cũng huyền ký cho họ. Đó là rốt ráo một đại sự nhân duyên vậy.
Trộm nghĩ kinh này là vua trong các kinh, các nước đều truyền bá rộng rãi. Riêng ở Trung Hoa có đến hơn trăm nhà sớ giải thì đủ biết tầm quan trọng của nó rồi. Bộ kinh này lưu thông đến nước ta (Việt Nam) đặc biệt vào triều vua Gia Long, có một vị cao tăng là Hòa thượng Bích Động y theo kinh này mà làm đề cương.
Nay ty Hoằng pháp chúng tôi (Thanh Chúc, Thanh Quy, Thanh Trà) phát tâm khắc lại và lấy bộ này làm một trong mười khoa công án. Đây là lời dẫn vậy.
Vĩnh nghiêm, hậu học Tỳ-kheo Thanh Hanh
Kính đề lời dẫn tựa.
Hoàng triều Bảo Đại năm thứ chín (1933) tháng 4 mùng 10.
Nước Đại Nam, tỉnh Ninh Bình, phủ An Khánh, huyện An Mô, tổng Đam Khê, xã Đam Khê, chùa Bích Động tàng trữ bản để về sau biết mà in.
Tựa tông chỉ đề cương Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Một lúc nọ, nhân khi du hóa đặt bước đến Liêm Khê, mừng rỡ gặp được Thiền sư Thanh Đàm, cùng nhau luận bàn vui vẻ. Thiền sư bảo: “Vừa mới biên tập đề cương kinh Diệu Pháp chưa được phân nửa. Hồi hôm nằm mộng thấy đức Bổn Sư dường như về ấn thọ cho, lại thấy rõ trên nửa tòa có đức Đa Bảo. Nay tôn giả vừa đến đây, là ý Phật khiến cho Ngài đến chứng minh đó vậy”. Lúc đó, Thanh Nguyên tôi nửa mừng nửa sợ cầm bản thảo nhuận sắc vừa biên xong, mới rõ tạng tánh, hồ tâm Như Lai chói suốt. Tôi xin thành thật viết bài tựa này để chứng minh. Kệ rằng:
Chỉ bảo cho ta ngọc Biện Hòa,
Hai mươi tám phẩm từ biển giác,
Đại thiên sa giới hội tâm cơ.
Hòa Thượng Năng Nhân thầm thọ ký,
Như Lai Đa Bảo kín hộ gia,
Khiến rõ tâm ta đâu tá sứ,
Ngợi khen Diệu Pháp lẫn Liên Hoa.
Năng sử ngô vi tích Biện Hòa,
Nhị thập bát châu uyên giác hải,
Đại thiên sa giới hội tâm cơ.
Năng nhân Hòa thượng minh tương thọ,
Đa Bảo Như Lai mật hộ gia,
Khiển ngã tâm lai minh tá xứ,
Tán dương Diệu Pháp, tán Liên Hoa.
能使否爲昔卡和,
二十八週淵覺海,
大千沙界會心機,
能仁和尚冥相授,
多寶如來密護加,
遣我心來明佐使,
讚揚妙法讚蓮華。
Trộm nghe: kinh Pháp Hoa là một đại sự của chư Phật, là yếu môn của Bồ-tát, là chân như bình đẳng của Như Lai, vì thương chúng sanh mà khai thị ngộ nhập. Thường khi chư Phật diễn nói chẳng cần truyền trước. Hằng ngày chúng sanh tu trì sẽ được thọ ký quả đương lai.
Diệu Pháp là huyền vi khó vạch bày mà lại cao lớn vòi vọi. Liên Hoa là bông sen chẳng nhiễm bùn nhơ, hương thơm ngào ngạt. Rộng lớn bao trùm pháp giới, cõi nước nhiều như số bụi nhỏ của đức Như Lai cũng không bỏ sót, tròn sáng soi khắp hằng sa, Bát-nhã, Bồ-đề thảy đều đầy đủ. Chư Tổ tha thiết nghĩ đến chúng sanh, mới dùng văn cú, ngữ ngôn để mở bày, chẳng khác nào mò châu đáy biển, tìm ngọc non cao.
Đến như ngài sa-môn Thanh Đàm có duyên tam học từ đời trước, ngày nay may mắn gặp được chánh tông. Ngài noi theo phong cách tuyệt vời của cửa Động đỉnh giác, nếm pháp vị sâu mầu của Tổ Đạo Nguyên. Vào năm Đinh Mão Ngài theo Tổ sư ở Nguyệt Quang Thiền tự, trong lòng mừng vui cung kính tưởng như khó gặp mà gặp được một vị Phật sống như thế, thật là cởi mở tấc lòng. Giữa một buổi trưa mặt nhật rỡ ràng, Ngài bèn sửa sang y phục, hình sắc nghiêm trang, trải tọa cụ trước Tổ, quỳ gối chắp tay bạch cùng Tổ sư Đạo Nguyên rằng:
— Tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chặng giữa. Vậy rốt ráo tâm ở chỗ nào?
Tổ sư mỉm cười xoa đầu Ngài, liền chỉ bày tâm ấn và nói kệ rằng:
Gặp vật thấy cơ,
Tánh vốn như như,
Trong ngoài nào mắc?
Ngộ vật kiến cơ,
Tánh bổn như như,
Hà quan nội ngoại.
遇物見機,
性本如如,
何關內外。
Lúc ấy, ngài Thanh Đàm vui mừng lễ bái đảnh thọ ân cần, hoát nhiên nắm được chìa khóa chẳng còn ngại cửa đóng. Từ đó Ngài chuyên tinh nghiên cứu tam tạng, phẩu phán nhất thừa. Phàm các kinh Diệu Pháp, Lăng Nghiêm nếu có chỗ nào nghi ngờ liền đem thưa hỏi. Đến năm Canh Ngọ, Ngài đăng đàn thọ giới Cụ Túc, từng gõ cửa Tổ sư để được kiến tánh. Tổ sư lại có mật ấn nói bài kệ:
Gót chân mây phủ chớ bảo Tiên,
Ngươi nên nuôi dưỡng trâu cường tráng.
Hôm sớm quen cày tấc ruộng kia.
Vân sinh túc hạ vị ngôn tiên,
Nhiêu quân bảo dưỡng ngưu phì tráng,
Triêu tịch thục canh bỉ thốn điền.
雲生足下未言僊,
饒君保養牛肥壯,
朝夕熟耕彼寸田。
Ngài Thanh Đàm từ đó càng thêm tinh tấn, tay không rời quyển kinh. Trải qua bốn mươi tám năm (từ năm Đinh Tỵ đến Đinh Mão), Ngài chống tích đến Liêm Khê tư duy bí tạng của Cổ Phật, không tiếc rẻ với chúng sanh mà muốn cho tất cả đồng được vào tri kiến, nên nói: “Tôi dầu được chút ít đâu nên xẻn tiếc ư?”.
Đề Cương kinh Diệu Pháp này nếu có chút công đức lành nào, chẳng dám dành riêng phần mình mà muốn cho Liên Hoa đồng mọc ở đầm trong; chẳng tìm cầu bên ngoài mà khiến Diệu Pháp sẵn chứa nơi tấc đất. Trông mong hàng thanh chúng đầy đủ mắt chân chánh. Như trong đây lý sự được đi đôi thì xin tất cả được Như Lai thọ ký.
Đốt hương kính cẩn viết lời tựa này. Kệ rằng:
Diệu hoa trỏ thẳng pháp đề cương,
Nhất thừa Minh Chánh liền khai thị,
Tam yếu Đạo Trung rộng xiển dương,
Muôn phương tỏ ngộ tâm viên tịnh,
Tất cả vào sâu lý viễn trường,
Thanh tịnh liên hoa ngời pháp giới,
Tỳ lô tạng hải diễn chân thường.
Hoa mục chỉ tiêu tổng pháp cương,
Minh Chánh nhất thừa khai tối quảng,
Đạo Trung tam yếu thị hoằng dương,
Quần phương hội ngộ viên tâm tịnh,
Chúng đẳng đế quan nhập lý trường,
Thanh tịnh liên hoa quang pháp giới,
Tỳ lô tạng hải diễn chân thường.
華目指標總法網,
明正一乘開最廣,
道中三要示弘揚,
群方會悟圓心淨,
眾等諦觀入理長,
清淨蓮華光法界,
毗盧藏海演真常。
Tông chỉ đề cương Kinh Diệu pháp Liên Hoa
Đức Thế Tôn, vì một đại sự nhân duyên nên xuất hiện ở đời. Bởi muốn khai thị cho chúng sanh khiến ngộ nhập Phật tri kiến đạo.
Lúc mới thành Chánh giác, Ngài nói kinh Hoa Nghiêm, đem cho họ giáo Viên đốn Nhất thừa, khiến mọi người đồng lên biển Hoa Tạng. Nhưng pháp lớn cơ nhỏ, chắc chắn là khó vào. Do đó, Giáo có năm thời, Thừa chia ba tạng.
Thời thứ hai, nơi vườn Lộc Dã, Ngài nói kinh A-hàm.
Thời thứ ba, tại tịnh xá Kỳ Hoàn, Ngài nói kinh Bát-nhã.
Thời thứ tư, trong núi Kỳ-xà-quật, Ngài nói kinh Pháp Hoa.
Thời thứ năm, ở thành lớn Câu-thi, Ngài nói kinh Niết-bàn.
Hai thời trước, là phần giáo của Tiểu thừa và Nhị thừa. Đến thời Pháp Hoa, là phần giáo của Đại thừa. Kinh nói: Phật nói kinh Đại thừa, tên “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”.
Bởi chư Phật hộ niệm, từ lâu xa đến giờ. Nay, trong chúng đệ tử, căn cơ đã thuần thục, lưới nghi cũng trừ xong, có thể kham nhận lãnh pháp lớn, nên Phật đem Đại thừa này giao phó. Giáo này cũng đồng với kinh Hoa Nghiêm. Do đó, kinh nói: “Thẳng bẳng bỏ phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng. Khiến cho chúng đệ tử, nương đạo Nhất thừa này, tiến vào Tối thượng thừa, Tri kiến Phật nhất đại sự, A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề”.
Nhưng, kinh Pháp Hoa cùng kinh Lăng Nghiêm đồng một ý hướng, mà kinh Pháp Hoa là mật ý xưng dương tán thán Phật tri kiến. Kinh Lăng Nghiêm là nói rõ Phật tri kiến. Đến kinh Niết-bàn thì dạy: “Sanh diệt đã hết, lặng lẽ là vui”. Chính nơi đây, niềm vui lớn mới thật rốt ráo.
Nên biết trên hội Pháp Hoa, là lúc đào giếng đã thấy đất ướt, biết chắc gần tới nước. Hội Lăng Nghiêm, là khi thấy nước rồi. Hội Niết-bàn, là lúc uống nước. Thế thì, nhân duyên một việc lớn, chính là giải thoát vậy.
Nói là lớn, cũng chẳng vượt qua tâm. Nhưng, tâm lại là Tri kiến chân như, bản lai không một vật. Chúng sanh tự quên cái bản lai này, theo vọng thức, trôi giạt mãi trong biển khổ. Cho nên, Pháp của Phật nói ra, dụ như chiếc bè, hay cứu vớt chúng sanh, ngược dòng mà qua, khiến họ bỏ vọng về chân. Sau đó, mới khai thị cho họ, dạy biết cái “bản lai thanh tịnh”, ngộ nhập “Tri kiến địa chân như”.
Tổng nêu pháp dụ và đề mục của kinh
Diệu Pháp Liên Hoa kinh, năm chữ. Hai chữ Diệu Pháp là chỉ cho pháp thật. Pháp tức là tâm xưa nay trong sạch. Tâm ấy, xưa nay không sanh không diệt, chẳng sạch chẳng nhơ, chẳng thêm chẳng bớt. Ở phiền não mà chẳng loạn động, trụ trần lao mà không nhiễm ô. Cho nên nói, Tâm xưa nay trong sạch là vậy.
Lại tâm này, là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của chúng sanh. Tròn đồng thái hư, lớn không bờ mé. Linh linh lặng lặng, phô xưa bày nay. Trạm trạm lóng trong, tức không tức sắc. Không thể dùng tâm thức suy lường mà biết được. Đức Thế Tôn, vì muốn đem một việc lớn, “Tâm này” trao phó cho hàng Bồ-tát, gây tâm nhân địa, làm gốc tu nhân. Nhiên hậu, có thể thành tựu quả địa tu chứng, nên nói rằng Diệu Pháp.
Nên biết, tâm này trong các kinh đều khai thị nó trước nhất. Phương tiện đặt tên, mỗi chỗ chẳng đồng. Như Tâm Kinh Bát-nhã thì “Tâm Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa”. Lại bảo “Bồ-tát Quán Tự Tại”. Cũng nói “Chân thật chẳng hư”. Kinh Tịnh Danh nói “Pháp môn Bất nhị”. Hoặc là “Chẳng nghĩ bàn”. Kinh Kim Cương dạy “Như thế sanh tâm thanh tịnh”. Lại dạy “Nên không chỗ trụ mà sanh tâm ấy”. Kinh Hoa Nghiêm nói “Biển tánh Tỳ-lô”. Lại nói “Trí Căn bản”. Kinh Lăng Già cho rằng “Tự giác thánh trí”. Kinh Lăng Nghiêm chỉ “Diệu minh nguyên tinh”. Lại nói “Như Lai tàng tánh”. Kinh Viên Giác thì “Nhân địa pháp hạnh”. Hoặc là “Viên Giác diệu tâm”. Kinh A Di Đà nói “A Di Đà Phật”. Lại nói “Kinh công đức chẳng thể nghĩ bàn, hết thảy chư Phật đều hộ niệm”. Kinh Đại Bát Niết-bàn thì dạy “Thân Kim Cương chẳng hoại”. Đến như kinh Pháp Hoa này là “Diệu Pháp Liên Hoa”, là “Một đại sự nhân duyên”. Lại “Phật tri kiến đạo”. Hay là “cứu cánh Phật tuệ”. Cũng lại “Trí nhất thiết chủng” v.v... Như thế bao nhiêu thứ danh hiệu, đều tùy dụng mà đặt ra, có vô lượng sự sai khác. Thế nên nói là “Diệu Pháp”.
Hai chữ Liên Hoa là thí dụ. Lấy trong sạch chẳng ô nhiễm làm nghĩa. Vì tất cả sự vật trong thế gian, chẳng kham làm dụ cho tâm, nên cưỡng lấy hoa sen để ví cho nó. Bởi loài hoa này sanh trong nước bùn, mà chẳng bị nước bùn làm ô uế. Cũng như tâm ở trong trần lao, mà chẳng bị trần lao làm mê hoặc. Nhưng, tâm không hình tướng, hoa có xanh, vàng. Nhân hoa mà rõ cái thấy, do thấy mới biết hoa. Hoa là sắc tướng vô tình, còn thấy biết chính là chân tâm. Chỉ chẳng vọng sanh phân biệt thì vật ngã tự như như.
Kinh là sợi chỉ xâu suốt tâm. Bảy quyển bao hàm hơn sáu muôn lời, đều là những số của tâm. Lấy một sợi chỉ xâu hết lại thành một kinh vậy. Nhưng, chỗ tỏ bày của kinh là môn học Định, Tuệ. Thế là nói lược đi, kỳ thật gồm cả Giới trong đó, do Giới giúp cho Định Tuệ. Nhân Giới sanh Định, do Định phát Tuệ. Thế nên, Giới là phương tiện đầu của Định Tuệ, há có thể lãng quên được ư?
Nói Định Tuệ, tức là tông chỉ của Thiền định. Tuy trong các kinh đều nói Định Tuệ, nhưng có Định Tuệ Tiểu thừa, Định Tuệ Nhị thừa, hoặc Định Tuệ của Quyền thừa Bồ-tát. Đến như kinh này thì Phật tuệ rốt ráo, chỉ bày Nhất thừa, Phật tri kiến đạo, khiến các chúng sanh rốt ráo đều được Trí nhất thiết chủng.
Nên biết, Định Tuệ trong kinh này nói, chẳng phải Định Tuệ của các kinh khác mà có thể so sánh được. Kinh nói: “Tạng kinh Pháp Hoa này, rất bền chắc sâu xa, không người có thể đến”.
Nay, đức Phật giáo hóa hàng Bồ-tát được thành tựu rồi, nên vì họ mà chỉ bày. Nhưng kinh Pháp Hoa, mới bắt đầu khai thị khiến họ ngộ nhập. Đến kinh Lăng Nghiêm, thì nghĩa Đại thừa đã rành rõ, mọi việc đã hoàn tất. Thế nên biết, kinh Pháp Hoa cùng kinh Lăng Nghiêm, làm tiêu biểu cho nhau. Do đó, kinh Pháp Hoa cũng có tên là “Đại Phương Quảng Diệu Liên Hoa Vương kinh”. Kệ rằng:
Đề kinh năm chữ, nghĩa u huyền,
Diệu Pháp Liên Hoa Phật tuệ viên,
Thanh văn Độc giác khôn lường xét,
Bản lai thanh tịnh, bặt trần duyên,
Theo thời chẳng muội Chân tri kiến,
Chỗ hiển mở bày thật quả nhân,
Pháp dụ cùng nêu, ngời đại sự,
Tâm hoa rực rỡ, chiếu vô biên.
Diệu Pháp Liên Hoa Phật tuệ viên,
Độc giác Thanh văn nan trắc lượng,
Bản lai thanh tịnh tịch trần duyên,
Tùy thời bất muội chân tri kiến,
Hiển xứ khai phu thật quả nhân,
Pháp dụ song chương minh đại sự,
Tâm hoa xán phát chiếu vô biên.
妙法蓮華佛慧圓,
獨覺聲聞難測量,
本來清淨寂塵緣,
隨時不味真知見,
顯處開敷實果因,
法喻雙彰明大事,
心華燦發照無邊。
Tổng nêu nhân do tôn chỉ Khai, Thị, Ngộ, Nhập
Phần duyên khởi của các kinh, mỗi mỗi khác nhau. Nhân duyên kinh này, lấy ánh sáng mà dẫn, từ trong vô lượng nghĩa lưu xuất. Vô lượng nghĩa cũng là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Hạng thượng căn thấy đó, đã tròn đầy yếu cơ Khai, Thị, Ngộ, Nhập. Chẳng nhọc đức Thế Tôn từ Chánh định dậy, lại diễn nói thêm. Nên trong kinh nói: “Pháp ấy chẳng thể nghĩ bàn, tướng lời nói lặng lẽ. Nhưng các loài chúng sanh khác không thể hiểu thấu, nên xin ưa muốn nghe”.
Khai, là phá bỏ vọng tưởng tình thức kia, bày tỏ căn tánh chân thường tức là Phật tri kiến, tâm bản lai thanh tịnh.
Thị, là đã khai phá vọng thức rồi, liền chỉ ra căn tánh chân thường, là Phật tri kiến, tâm bản lai thanh tịnh.
Ngộ, là chúng sanh từ kiếp vô thủy đến giờ, chẳng biết chân tánh xưa nay trong sạch. Chỉ nhận bốn đại, năm uẩn làm thân, sáu thức vọng tưởng làm tâm. Nên cần phải mở bày, mới có thể giác ngộ “tình thức là vọng, căn tánh là chân”.
Nhập, là đã biết vọng thức, nhận ra chân tánh, bèn hồi tâm ngộ nhập tánh chân thật, chóng bỏ thức tình vọng tưởng. Lại, Nhập cũng chính là nghĩa “nhập lưu vong sở”. Là thu nhiếp các thức trở về căn nguyên, trái bỏ cảnh giới vọng trần vậy.
Kệ rằng:
Pháp Hoa một đại sự nhân duyên,
Khai Thị khiến cho Ngộ Nhập liền1
Phóng quang sáng tỏa, bừng mắt đạo,
Từ tam-muội dậy, chỉ linh nguyên,
Hoa lòng, nhận thấu chân tri kiến,
Biển tánh, vào dòng giác biến viên,
Hãy dừng chớ có dùng lời nói,
Mây bay, tùng gợn, vốn thiên nhiên.
Khai Thị linh tri Ngộ Nhập toàn.
Phóng nhất quang đằng Khai đạo nhãn,
Tùng tam muội khởi Thị linh nguyên.
Tâm hoa Ngộ đạt chân tri kiến,
Tánh hải Nhập lưu giác biến viên.
Chỉ chỉ bất tu ngôn thuyết tướng,
Vân phi tùng hưởng bổn thiên nhiên.
開示令知悟入全,
放一光騰開道眼,
從三昧起示靈源,
心華悟達真知見,
性海入流覺遍圓,
止止不須言說相,
雲飛松響本天然。
Nêu rõ diệu lý theo mỗi phẩm trong kinh phân giải
Phẩm Tựa, vào đầu nói: “Phật nói kinh vô lượng nghĩa xong, Ngài vào chánh định vô lượng nghĩa xứ. Thân tâm chẳng động, giữa chặng mày phóng ánh sáng trắng, chiếu thẳng đến phương đông, tướng các cảnh giới bên đó đều hiện rành rõ”, ấy là sao?
Bởi ánh sáng này trưng biểu cho nhãn căn thấy tánh, tức là Diệu pháp đạo lớn Nhất thừa chẳng nghĩ bàn, cũng là Tối thượng Phật thừa. Lại phương đông thuộc mộc, can tạng chúng ta cũng thuộc mộc. Trong can ngoài nhãn, tinh quang chiếu kiến. Chiếu kiến này chính là tâm. Thân tâm chẳng động phóng ra ánh sáng, là trưng biểu cho tâm thường lặng lẽ, ánh sáng thông cả chiếu kiến. Tâm này xưa nay trong sạch chẳng thể nghĩ bàn. Nhưng chúng sanh theo chiếu bỏ mất chân tông, đuổi cảnh mà bị lưu chuyển. Ấy bởi chấp nhận vọng thức làm tâm vậy.
Thế nên, đức Thế Tôn hiện ánh sáng giữa chặng mày chẳng động này, khiến các chúng sanh bỏ vọng về chân, mà chuyển thức thành trí. Đương cơ, ngài Di Lặc khởi nghi, là theo thức mà tỏ bày tướng cảnh giới hiện bên ngoài kia. Bồ-tát Văn Thù nêu rõ bản nhân của ánh sáng nhiệm mầu. Nghĩa là hiện nay thấy điềm ấy như xưa. Đây lại trưng biểu cho thức theo cảnh mà hiện, cảnh từ căn mà có. Căn tức là ứng dụng của tâm, đấy cũng chính trí căn bản.
Nên biết, một ánh sáng mà hiện khắp, nhằm bày tỏ gốc là một tinh minh, chia làm sáu hòa hợp. Vào một căn mà viên ngộ cả sáu căn, vào một pháp mà chóng rõ hết các pháp là đấy.
Kệ rằng:
Phật tuệ chiếu soi khắp phương đông,
Cùng thời, chúng hội khởi nghi đồng.
Mở đầu Di Lặc, Khai mê thức,
Chỉ thẳng Diệu quang, Thị giác không.
Lập một phá ba, toan trước hiển,
Ngộ quyền về thật, sẽ sau thông.
Pháp môn tùy Nhập, dù vô lượng,
Đồng đến Liên hoa, pháp mênh mông.
Nhất thời như thị chúng nghi đồng,
Khải mông Di Lặc khai mê thức,
Trực chỉ Diệu Quang thị giác không,
Lập nhất phá tam tiên dự hiển,
Ngộ quyền qui thật thứ đương thông,
Pháp môn tùy nhập tuy vô lượng,
Đồng thú Liên hoa đại pháp trung.
一時如是眾疑同,
啓蒙彌勒開迷識,
直指妙光示覺空,
立一破三先預顯,
悟權歸實次當通,
法門隨入雖無量,
同趣蓮華大法中。
Phẩm Phương tiện, Thí dụ, Tín giải và Thọ ký
Thọ ký là chỉ thẳng tâm bản lai thanh tịnh này, tức chân như Phật, tri kiến đạo. Dùng tâm này làm nền tảng tu nhân, tương lai chứng được quả vị trong sạch trang nghiêm cõi Phật. Chính trong kinh đã nói: “Nhân như thế, duyên như thế, quả như thế, báo như thế, rốt ráo trước sau đều như thế”.
Tổ Bá Trượng cũng nói: “Chẳng lầm nhân quả” là đấy !
Chư thiên mừng khen, là bởi các trời xưa ở trong chỗ tu hành do phước hữu lậu mà được sanh lên cõi trời, nhưng chưa thoát khỏi luân hồi và năm thứ tướng suy. Nay nghe được tâm trong sạch mầu nhiệm như hoa sen, đồng thời rõ được yếu chỉ xuất thế, mừng rỡ tự biết sẽ là Phật, nên cùng nhau khen ngợi vậy.
Trong phẩm Thí Dụ, nhà lửa là dụ cho ba cõi, sáu đường. Lửa là dụ cho sanh, già, bệnh, chết v.v... tám thứ khổ và vô lượng phiền não. Ông Trưởng giả là dụ cho Phật. Các con ông Trưởng giả là dụ cho đệ tử Phật. Ba xe là dụ cho lời dạy thuở xưa. Nhất thừa là chỉ cho cơ lớn vui thích. Chàng cùng tử bỏ cha chạy trốn là dụ chúng sanh mê căn nhận thức. Mà thức thì tản mạn theo sáu trần, chưa từng phản chiếu lại căn nguyên. Đã nhờ tiếp nhận, mà vẫn còn tự khi ta là phàm phu, lòng không chút hy vọng.
Than ôi ! Đức Thế Tôn đành nhận tướng phàm phu mà tùy nghi vì nói. Kệ rằng:
Thân tử mong nhờ nhận trước tiên,
Hoa Quang cõi Phật quả y nhiên,
Các trời hớn hở vui đồng tánh,
Hai dụ tuyên dương rõ đốn viên,
Đầu hứa ba xe, sau tặng một,
Trước cho nhà cỏ cuối thêm kiên,
Trong đây quyền thật đều phô diễn,
Được ý quên lời mới là hiền.
Hoa Quang Phật độ quả y nhiên,
Chư thiên hỷ tán minh đồng tánh,
Nhị dụ tuyên dương hiển đốn viên,
Sơ thuyết tam xa chung dữ nhất,
Cá trung quyền thiệt câu phu diễn,
Đắc ý vong ngôn thủy thị hiền.
華光佛土果依然,
諸天喜讚明同性,
二喻宣揚顯頓圓,
初說三車終與一,
前居艸舍後加堅,
箇中權實俱敷演,
得意忘言始是賢。
Phẩm Dược thảo dụ và Hoá thành dụ
Dược thảo dụ là nói căn có lớn nhỏ, trí có chậm mau, cơ có sâu cạn.
Bởi trong chúng Thanh văn, hoặc nghi rằng pháp Đại thừa này, hạng trí lớn như Xá-lợi-phất, mới có thể lãnh thọ, bọn ta đâu kham nổi, nên đức Phật dùng thí dụ mà sách tiến họ. Bảo họ biết pháp ấy có thông cả lớn nhỏ, kẻ thượng trung hạ trí đều có thể đồng tu, chỉ ở phương tiện chứng đắc có mau chậm chẳng đồng thôi. Cũng như một trận mưa nhuần thấm khắp hết, mà các cây cỏ hấp thụ có khác nhau, song nhuần thấm vẫn là một. Tu hành chỉ nương nơi tâm Diệu liên hoa này, một bề hướng thẳng tới trước cũng có lúc đến nhà.
Hóa thành dụ là lời dạy thuở trước, nói nhân, nói duyên, nói giới, nói định. Hàng đệ tử Thanh văn tạm diệt thức tâm, trụ trong khô định, gọi là Niết-bàn. Kỳ thật chưa viên mãn tuệ tự tại, mà lại dừng ở trong đó, ấy gọi là dừng nơi hóa thành. Nên trong kinh nói: “Ta dù trước nói các ông được diệt độ, chỉ hết sanh tử, mà thật chẳng diệt. Nay các ông hãy gắng tiến lên, chỉ có trí tuệ Phật”. Thế thì biết, kinh này mục đích là xiển dương Phật tuệ, biểu lộ Phật tri kiến, khuyên bảo người người cùng tu tiến, thẳng đến đạo tràng tịch diệt, mới là Phật tuệ rốt ráo, bảo sở của đại Niết-bàn.
Kệ rằng:
Cội, cành, nhánh, lá, số nhiều đa,
Chẳng ngoài ba bậc ấy thôi mà,
Mưa pháp khắp nhuần loài dược thảo,
Phật thừa cùng thọ hội Liên hoa,
Đại Thông Trí Thắng, nhân còn đó,
Bồ-tát Sa-di, chánh hộ gia,
Chớ kẹt Hóa thành, nên tiến lộ,
Ngay đây Bảo sở, chẳng đâu xa.
Bất ngoại hồ tam phẩm dã da,
Pháp vũ phổ triêm chư dược thảo,
Phật thừa quân thọ hội Liên hoa,
Đại Thông Trí Thắng chân nhân tại,
Bồ-tát Sa-di chánh hộ gia,
Mạc trệ Hóa thành đương tiến lộ,
Mục tiền Bảo sở đạo phi hà.
不外乎三品也耶,
法雨普霑諸藥艸,
佛乘均授會蓮華,
大通智勝真因在,
菩薩沙彌正護加,
莫滯化城當進路,
目前寶所道非遐。
Phẩm Ngũ bá đệ tử thọ ký, Thọ học vô nhân ký và Phẩm Pháp sư
Hàng Hữu học, Vô học đều được thọ ký, cho đến hạng người chỉ nghe một kệ, một câu, hoặc tùy hỷ cúng dường kinh này, cũng đều được Phật thọ ký cho đạo Bồ-đề.
Bởi được nghe kinh này, dù chưa lên địa vị thánh, nhưng đã thấy chân nhân, xưa nay trong sạch. Đã có nhân như thế, hẳn được quả như thế. Dụ như có sẵn châu báu trong chéo áo. Lại như đào giếng ở chỗ cao nguyên, đã thấy đất ướt, biết chắc rằng nước chẳng còn xa.
Đất ướt là nhân gần của nước, tâm trong sạch là hạt giống của Bồ-đề. Lục Tổ đại sư khi trao tâm ấn, Ngài từng dạy kệ:
Đất tâm sẵn các giống,
Mưa khắp mầm chồi sanh.
Chóng ngộ, hoa tình sạch,
Bồ-đề quả tự thành.
Kệ rằng:
Kiều Trần Như, cùng các bạn thân,
Cả thảy năm trăm nhận một lần,
Hữu học thảy đều sẽ làm Phật,
Thanh văn cũng được chứng Năng nhân,
Nghe kinh cúng dường rõ chân tánh,
Tùy hỷ xét tu, trồng chánh nhân,
Chẳng khác cao nguyên đào tìm mạch,
Thấy bùn biết nước đã kề gần.
Ngũ bá quân mông thọ ký ân,
Hữu học diệc đồng đương tác Phật,
Thanh văn hàm cộng chứng Năng nhân,
Văn kinh cúng dường minh chân tánh,
Tùy hỷ tư tu thực chánh nhân,
Dụ nhược cao nguyên chi tạc tỉnh,
Kiến nê tri thủy dĩ tương thân.
五百均蒙授記恩,
有學亦同當作佛,
聲聞咸共證能仁。
聞經供養明真性,
隨喜恩修植正因,
喻若高原之鑿井,
見泥知水已相親。
Phẩm Hiện bảo pháp
Tháp Phật Đa Bảo vọt hiện lên chứng minh, là trưng biểu cho Diệu pháp của tâm bản lai thanh tịnh, được sự hộ niệm của các đức Phật thuở quá khứ và sự ủng hộ gìn giữ của các đức Phật thời hiện tại, cũng là chỗ tu chứng của các đức Phật trong tương lai. Số mục theo đời chia làm ba, nhưng tâm này chỉ là một. Từ xưa đến giờ, trước sau chẳng khác. Cũng chẳng theo trình tự đổi dời của ba thuở. Thế nên, kinh Kim Cương nói: “Tâm quá khứ chẳng thể được, tâm hiện tại chẳng thể được, tâm vị lai cũng chẳng thể được.”
Lại Phật Đa Bảo là trưng biểu cho Pháp thân. Hiện tại đức Thích Tôn là trưng biểu cho Ứng thân. Chư Phật phân thân khắp nơi trong mười phương là trưng biểu cho Hóa thân. Đây nhằm bày tỏ ba thân cùng một lý vậy.
Tháp bảy báu là trưng biểu bảy đại, năm uẩn, thân và tâm. Đức Phật ở trong đó khen “Lành thay” đối với đức Thích Tôn, đây là trưng biểu Pháp thân Phật, ẩn kín trong lầu năm uẩn bảy đại mà phát huy ra sáu căn thấy, nghe, hiểu, biết ấy vậy. Chính trong kinh Lăng Nghiêm nói Như Lai tạng tánh là đấy. Đại chúng muốn mở cửa tháp báu để thấy đức Đa Bảo Như Lai. Nhưng đức Phật kia có lời thệ lớn, là cần đợi các phân thân của đức Thích Tôn trong mười phương nhóm họp đông đủ, Ngài mới xuất hiện. Đây là trưng biểu cho hành nhân, muốn tự thấy tâm thể xưa nay của mình, tức phải thu cái nhìn nghe trở lại. Thu nhiếp sáu căn, chẳng cho căn tánh tán loạn ngoài cảnh giới sáu trần. Đến lúc một niệm không sanh, liền đó tự thấy tâm thể xưa nay của mình.
Bởi tâm thể không hình, nhưng tác dụng của tâm có dấu vết, ứng hiện ra các căn. Hợp cơ, chỉ hiển bày kiến căn, mà sáu căn vẫn đủ. Căn là chỗ của tâm quang ứng dụng, tâm tức là căn thể xưa nay. Đây là tâm căn soi lẫn nhau, thể dụng đều rõ rệt. Muốn thấy bản tâm, từ căn mà vào. Trong kinh nói: “Từ ánh sáng mà được lửa, nắm mũi là dắt cả con trâu”.
Lại đức Phật Đa Bảo trưng biểu cho tâm thể xưa nay. Đức Thích Tôn trưng biểu cho ứng dụng của căn tánh. Các Hóa Phật trưng biểu cho thức tản mạn theo sáu trần. Nay thì chuyển thức đến dụng là nghĩa các phân thân nhóm họp. Nhiếp dụng về thể là nghĩa được thấy Phật Đa Bảo. Hai đức Như Lai cùng ngồi một tòa trong tháp, là nghĩa xưa nay một lý, cũng chính là nghĩa thể dụng không hai. Lại có nghĩa là ba thân đồng một thể. Các học giả, phải hiểu như thế !
Kệ rằng:
Nhân gì tháp báu vọt trước đây,
Lại nghe trong đó tiếng “Lành thay”,
Đại Nhạo Thuyết Tôn, nghi đến hỏi,
Thích-ca Văn Phật quyết tỏ bày,
Phân thân vốn thật Mâu-ni hóa,
Tháp báu nguyên là cổ Phật đài,
Đấy chỉ ba thân về một chỗ,
Tòa sen cùng ngự, lý không sai.
Cánh thính kỳ trung tán thiện tai !
Đại Nhạo Thuyết Tôn nghi trí vấn,
Thích-ca Văn Phật quyết minh khai,
Phân thân bản thị Mâu-ni hóa,
Bảo tháp nguyên chân cổ Phật đài,
Đáo thử tam thân qui nhất xứ,
Liên hoa đồng tọa lý vô sai.
更聽其中讚善哉!
大樂說尊疑致問,
釋迦文佛決明開。
分身本是牟尼化,
寶塔元真古佛臺,
到此三身歸一處,
蓮華同坐理無差。
Phẩm Đề-bà-đạt-đa
Phẩm Đề-bà-đạt-đa, là chỉ cho người tu hành đã ngộ tâm Diệu liên hoa. Lúc muốn tu tiến phải như đức Thế Tôn, trong tâm chỉ còn Diệu pháp, cởi bỏ mọi yêu thích, quên mất nỗi nhọc nhằn, sấn tới trong gian lao, và nhẫn nhục phát tinh tấn lớn, mong mỏi đến thành Phật mới thôi. Người xưa nói: “Thấy người hiền, nghĩ rằng ta sẽ được như họ, thấy kẻ ác, trong tâm hãy tự tỉnh lấy !”.
Nhưng trong tiết này, là trưng biểu lìa tướng ngã, xả sân hận, kiêu mạn, giải đãi... Chính cái tâm hay xả ấy, bèn thành hạt giống trí tuệ, nên rồi Đề-bà cũng sẽ làm Phật. Đến như việc Long nữ thành Phật, lý cũng rất u huyền.
Xét ra, vì nhiều tham dục, nên phải đọa vào loài súc sanh, mà rồng là loài có ưu thắng hơn các loài khác. Hơn thế nữa, đã thọ thân cái trong loài rồng, thì tâm ngu si, tham dục kia, hẳn lớn không gì hơn. Thế mà được đức Văn Thù giáo hóa cũng có thể làm Phật. Bởi Văn Thù là tượng trưng cho hạt giống trí tuệ. Bảo rằng, kia tuy thọ thân rồng cái, mà cũng hàm chứa hạt giống trí tuệ. Kia, sau khi cởi viên bảo châu dâng lên đức Phật, là trưng biểu đã xa lìa tâm tham dục, gìn giữ tâm trí tuệ. Liền chuyển nữ thân thành tướng nam tử, đó là trưng biểu cho tâm bỏ tham dục, liền thành giống trí Bồ-đề. Qua phương nam, nơi cõi Vô Cấu liền thành Chánh giác. Phương nam tức tâm địa rỗng sáng. Vô Cấu tức sạch trong. Liền thành Chánh giác tức chỉ cho đã ngộ đạt tâm châu, xưa nay rỗng rang sáng suốt, trong sạch, bèn chóng vượt hành tướng của ba thừa bốn quả, tiến thẳng vào chân tế, thì làm sao nghiệp báo của sáu đường mà có thể trói buộc được ư? Tổ sư Vĩnh Gia nói:
Chứng thật tướng, không nhân pháp,
Sát-na diệt hết nghiệp A-tỳ.
Bởi văn tiết của kinh này, nhằm bày tỏ tất cả chúng sanh trong ba cõi, bốn loài, sáu ngả, đều có Phật tánh. Chỉ vì theo nghiệp thức mà bị trôi lăn trong sáu ngả. Nếu gặp duyên phát giác, được nghe kinh điển Pháp Hoa, thấy được tâm xưa nay trong sạch, liền khi ấy chuyển tham sân si thành Giới Định Tuệ. Thế nào mà chẳng có thể chóng làm Phật?
Kệ rằng:
Thế Tôn đã từng làm quốc vương,
Vì đạo quên thân chẳng thể lường,
Hái trái cúng dường gìn Diệu pháp,
Lượm cây nấu nướng hiến tiên nhân,2
Đành rành nhẫn nhục thành vô thượng,
Đề-đạt, thầy ta việc phi thường,
Long nữ cởi châu dâng đức Phật,
Ý lìa tham ái hộ châu vương.
Vị đạo vong bì bất khả tư,
Thái quả cúng dường tồn Diệu pháp,
Thập tân thiết thực phụng A-tư
Thử minh nhẫn nhục thành vô thượng,
Thùy tín Đề-bà thị ngã sư,
Long nữ xả châu trì thượng Phật,
Ý ly tham ái hộ châu ky.
爲道忘疲不可恩,
採果供養存妙法,
拾薪設食奉阿私,
此明忍辱成無上,
誰信提婆是我師,
龍女捨珠持上佛,
意離貪愛護珠璣。
Phẩm trì
Tỳ-kheo ni thọ ký, là nhiếp ý việc Long nữ thành Phật ở trước. Bởi súc sanh cái ngộ tâm, còn có thể thành Phật thay, huống là người nữ hộ tâm mà chẳng được đạo hay sao? Không vì hình tướng để chia nam nữ, một tâm thanh tịnh xưa nay đồng.
Lại Bồ-tát trì kinh, nghĩa là người tu hành muốn hộ trì tâm này, thì chốn chốn nơi nơi, phải mặc áo nhẫn nhục, giữ giáp tinh tiến, cầm kiếm trí tuệ, vào rừng phiền não, dứt giống vô minh, khiến tâm được thường không tịch, tri kiến rỗng suốt, không các chướng ngại. Dù hành đạo này, mà bị đánh mắng cũng phải nhịn chịu. Tâm này chẳng tán động, cùng tột thuở vị lai, trọn không mảy may thối chuyển. Như gió giữ thế giới, bền chắc chẳng động. Như đất chở chúng sanh không chút nhàm mỏi. Đấy mới thật là Phật tử biết gìn giữ tâm, cũng chính là người hoàn toàn không có ngã, và thật sự là vị Bồ-tát hộ pháp vậy.
Kệ rằng:
Chớ đem năm chướng báng chư ni,
Thọ ký rành rành chẳng thiếu gì,
Di Mẫu ngộ tâm, thành Chánh giác,
Da Thâu kiến tánh, chứng Bồ-đề,
Đã hay thấy đạo, mới hành đạo,
Rõ suốt vô vi, nói hữu vi,
Bồ-tát trì kinh nào có tướng?
Pháp nhẫn vô sanh khéo siêng trì.
Thọ ký chi trung diệc hữu chi,
Di Mẫu ngộ tâm thành Chánh giác,
Da Thâu kiến tánh chứng Bồ-đề,
Dĩ năng kiến đạo phương hành đạo,
Liễu đạt vô vi thuyết hữu vi,
Bồ-tát trì kinh hà hành tướng,
Vô sanh pháp nhẫn tự tinh trì.
授記之中亦有之,
姨母悟心成正覺,
耶輸見性證菩提,
已能見道方行道,
了達無寫說有寫,
菩薩持經何行相,
無生法忍自精持。
-
Khai, Thị, Ngộ, Nhập: Tất cả các đức Phật Thế Tôn ra đời chỉ vì muốn cho chúng sanh “Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến”. Chúng sanh được khai thị ngộ nhập Phật tri kiến rồi lòng Phật mới thỏa, nguyện Phật mới xong, một đại sự nhân duyên ra đời của các Ngài mới hoàn tất. Kinh nói: “Các đức Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên mà hiện ra trong đời. Xá-lợi-phất ! Thế nào nói rằng các đức Phật Thế Tôn hiện ra trong đời chỉ vì một đại sự nhân duyên? Các đức Phật Thế Tôn vì muốn chúng sanh khai mở Phật tri kiến để được thanh tịnh mà hiện ra trong đời. Vì muốn chỉ thị Phật tri kiến cho chúng sanh mà hiện ra trong đời. Vì muốn cho chúng sanh tỏ ngộ Phật tri kiến mà hiện ra trong đời. Vì muốn tất cả chúng sanh chứng nhập Phật tri kiến mà hiện ra trong đời. Xá-lợi-phất ! Đó là các đức Phật Thế Tôn vì đại sự nhân duyên mà hiện ra trong đời vậy”. Phật tri kiến chính là bản giác diệu tâm, là chân tánh bình đẳng của tất cả Thánh phàm. Từ xưa đến giờ khắp cùng pháp giới, Phật và chúng sanh vẫn đồng một thể tánh này. Thể tánh dù đồng, nhưng mê chính nó là chúng sanh, ngộ chính nó là Phật. Ngộ tức thuận theo tánh. Thuận theo tánh thì luôn luôn thụ hưởng bốn đức “thường, lạc, ngã, tịnh”. Mê là trái tánh theo trần. Trái tánh theo trần hẳn luân hồi sanh tử đảo điên khôn cùng. Vì trần lao là cảnh “huyễn mộng vô thường”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Trái giác hợp trần, trái trần hợp giác”, là đấy. ↩
-
A-tư: Một vị tiên trưởng tên Vô Tỷ, tiền thân của Đề-bà-đạt-đa. ↩