Pháp Hoa Đề cương (II)
Phẩm An lạc hạnh
Bốn hạnh an lạc, là bảo người hộ trì tâm này, nếu ở trong già-lam, hoặc nơi chợ búa, phải khéo nương nơi bốn hạnh an lạc, đáo xứ tùy duyên mà thuyết pháp giáo hóa.
Nhưng hãy lấy giới luật làm trước để dẫn đường, dù cùng lẫn lộn với thế tục, hòa quang mà vẫn tự tại, giữ tâm trong sạch như gìn tròng con mắt.
Trong chứa chí đạo, ngoài chẳng khinh khi kẻ khác. Chí nguyện phải thân được hạt châu trên búi tóc để đại phá bốn ma. Một mai thấy suốt tâm bản lai, ngộ nhập chân như tri kiến địa.
Kệ rằng:
Diệu Pháp Liên Hoa, đề mục trên,
Bản lai thanh tịnh, rộng trời thênh,
Tới lui hành xứ, mắt tâm sạch,
Qua lại thân gia, tránh tị hiềm,
Cũng chẳng khi người, mà tự đại,
Chỉ nên niệm Phật, một lòng bền,
Một mai đại phá ma quân trận,
Tự tín hoa sen, lúc mọc lên.
Bản lai thanh tịnh bất tư nghì,
Vãng lai hành xứ thanh tâm mục,
Xuất nhập thân gia viễn tiếu nghi,
Bất dụng khi tha nhi tự tán,
Chỉ nghi niệm Phật nhất tâm trì,
Nhất triêu đại phá ma quân trận,
Tự tín Liên Hoa chánh phát thì.
本來清淨不思議,
往來行處清心目,
出入親家遠笑疑,
不用欺他而自讚,
只宜念佛一心持,
一朝大破魔軍陣,
自信蓮華正發時。
Phẩm Tùng đại dũng xuất
Đất cõi Ta-bà nứt ra, Bồ-tát từ dưới đất vọt lên. Bồ-tát tượng trưng cho hạt giống trí tuệ Phật. Đất nứt vọt ra là chỉ cho tâm lúc phá hết tình thức vọng tưởng, tức thì hạt giống trí tuệ từ trong đó mà hiển hiện lên. Bởi lúc vọng thức chưa phá, thì trí tuệ bị vọng tưởng che lấp. Mà trí tuệ lại ở dưới đó, chỗ sâu kín rất khó thấy. Nên kinh nói: “Tại thế giới Ta-bà này, trụ trong không trung của phương dưới”, ấy vậy.
Bởi tuy bị vọng thức che đậy, mà chẳng tạp vọng tưởng, chỉ chưa có dịp hiển hiện ra thôi. Nếu chẳng phải kinh này khai thị, thì dù có các người thông minh trong thế gian, đến các bậc lão túc, gồm tất cả suy nghĩ xét lường của họ, chắc chắn cũng chẳng biết. Thế nên, kinh Kim Cương bảo: “Bị người khinh tiện” là đấy.
Nay nhờ được khai thị, mới biết vọng tưởng vốn không, giống trí từ trong đó mà xuất hiện.
Kệ rằng:
Đất cõi Ta-bà nứt bên trong,
Vô biên Bồ-tát vọt lên không,
Di Lặc chẳng tường đại sĩ ấy,
Thế Tôn liền bảo “ngã nhi đồng”,
Thọ kiếp trần sa, tuyên chân giáo,
Từ thuở lâu xa, học chánh tông,
Đấy hiển thức tâm khi phá sạch,
Bồ-đề giống ấy hiện viên thông.
Bồ-tát vô biên dũng xuất không,
A Dật bất tri hà đại sĩ,
Thế Tôn vân thị ngã nhi đồng,
Trần sa kiếp thọ tuyên chân giáo,
Cửu viễn thời lai học chánh tông,
Thử hiển thức tâm thời phá liễu,
Bồ-đề chủng tử hiện viên thông.
菩薩無邊湧出空,
阿逸不知何大士,
世尊云是我兒童,
塵沙劫壽宣真教,
久遠時來學正宗,
此顥識心時破了,
菩提種子現圜通。
Phẩm Như Lai thọ lượng
Phẩm Thọ Lượng là tiêu biểu cho Pháp thân chân thể, xưa nay trong sạch, chẳng sanh chẳng diệt, sống lâu chẳng thể nghĩ bàn. Người tu hành, nên thích thú tinh thần này, đồng thời phát tâm Bồ-đề, mong cầu được chứng. Nếu người chỉ được nghe Phật sống lâu chẳng thể nghĩ bàn, một lòng tin nhận, thì người ấy được trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn, công đức cũng chẳng thể nghĩ bàn, đời tương lai ắt chứng được “sống lâu chẳng thể nghĩ bàn” như thế. Bởi hiển bày thức tâm sanh diệt đã diệt, thì chân tâm tịch diệt, chẳng sanh chẳng diệt hiện tiền. Kinh nói: “Này thiện nam tử, các ông nên tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai”. Phật bảo ba lần như thế.
Khi đó, trong chúng đại Bồ-tát, ngài Di Lặc làm thượng thủ, đồng chấp tay bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn, cúi xin Ngài nói, bọn chúng con sẽ tin nhận lời của Ngài”. Bạch rõ ba lần như vậy. Nay kẻ tối hạ bần tiện Giác Đạo Tuân này, xin cúi đầu qui mạng lễ. (Lược phần xưng danh hiệu Phật).
Kệ rằng:
Nghe rồi xoay thấy chủ nhân ông,
Mới rõ tu chân chẳng dụng công,
Hay chuyển pháp luân, trần số chúng,
Quay về giác đạo, tịnh tâm đồng,
Được nghe Phật thọ lâu xa tít,
Phước lớn nhân duyên bằng thái không,
Tạo tác cúng dường, công hữu lậu,
Suy lường thọ mạng, đức vô song.
Thủy giải tu chân bất dụng công,
Năng chuyển pháp luân trần số chúng,
Toàn qui giác đạo tịnh tâm đồng,
Đắc văn Phật thọ di trường viễn,
Hoạch phước nhân duyên đẳng thái không,
Tạo tác cúng dường công hữu lậu,
Tư duy thọ mạng đức vô cùng.
始解修真不用工,
能轉法輪塵數眾,
旋歸覺道淨心同,
得聞佛壽彌長遠,
獲福因緣等太空,
造作供養功有漏,
恩惟壽命德無窮。
Phẩm Phân biệt công đức, Tuỳ hỷ công đức và Pháp sư công đức
Phẩm Tùy Hỷ Công Đức. Do kinh này, nguyên lai là mở bày thức tâm của chúng sanh, chỉ rõ tri kiến Nhất thừa Phật tuệ thanh tịnh. Nên vào đầu quang có hai ý:
-
Nhân ánh sáng mà được thấy rõ.
-
Hiện cảnh mà dẫn khởi thức tâm. Khiến hạng người chấp thức sanh theo chỗ nghi ngờ của họ mà chỉ bày. Di Lặc đương cơ khởi nghi, ấy vì Di Lặc từ xưa đến giờ dùng thức mà tu. Nhưng thức thì nhiều lưu chuyển, niệm niệm sanh diệt. Trong đoạn kinh trước nói: “Lòng thường ôm giải đãi, say đắm nơi danh lợi, cầu danh lợi không chán, luôn dạo nhà giàu có”.
Đoạn kinh nói trên là chỉ cho thức tâm vậy. Lấy Di Lặc mà ví cho cả chúng sanh, từ vô thủy đến giờ, chấp vọng thức này làm thể. Nay trên hội được nghe kinh Pháp Hoa, khế hợp với bản tâm, chân như thanh tịnh, chẳng sanh chẳng diệt. Mới hay tâm này, là nhân chánh thành Phật. Nương nơi đây tu hành tiến vào, thì mỗi pháp mỗi pháp đều là công đức, thẳng đến thành Phật, lại chẳng còn theo vọng thức lưu chuyển nữa. Đó cũng là tiêu biểu cho nghĩa chuyển thức thành trí vậy.
Nên biết, nếu có được nghe kinh này, quyết định tương lai thành Phật. Thế nên đều phải tùy hỷ. Nhưng tùy hỷ kinh này lần lượt đến người thứ năm mươi, công đức của người này, chẳng thể đem những công đức khác, mà có thể so sánh bì kịp. Huống nữa là Pháp sư, siêng năng thọ trì đọc tụng kinh này, thì tự thấy thiên chân chẳng động, sáu căn thanh tịnh bản nhiên. Đấy là công đức của Pháp thân, dù có tính đếm, thí dụ, cũng chẳng lường xiết.
Kệ rằng:
Dật-đa hội ngộ, chánh nhân đồng,
Xin hỏi Năng nhân, lường xét công,
Tùy hỷ vì người mà chỉ dạy,
Văn Tư Tu tự chứng viên dung,
Ví chăng thí chủ công tuy lớn,
Đâu sánh nghe kinh, đức chẳng cùng,
Huống nữa thọ trì siêng giảng thuyết,
Sáu căn thanh tịnh hiển thần thông.
Thỉnh vấn Năng nhân giảo lượng công,
Tùy hỷ vị tha nhi chuyển giáo,
Văn Tư Tu tự chứng viên dung,
Thí du thí chủ công tuy đại,
Hạt nhược văn kinh đức bất cùng,
Hà huống thọ trì tinh tiến thuyết,
Lục căn thanh tịnh hiển thần thông.
請問能仁較量功,
隨喜寫他而轉教,
聞思修目證圓融,
譬猶施主功雖大,
曷若開經德不窮,
何況受持精進說,
六根清淨顯神通。
Phẩm Thường Bất Khinh Bồ-tát
Phẩm Bản sự của Bồ-tát Bất Khinh. Đây nói việc trước đã từng làm, là nhiếp ý sáu căn thanh tịnh ở trước. Nghĩa là Phật xưa lúc thực hành đạo Bồ-tát, tâm hành bình đẳng. Biết rõ tất cả chúng sanh thảy đều có Phật tánh, sáu căn thanh tịnh bản nhiên. Mỗi mỗi đều sẽ làm Phật, nên thường thực hành hạnh phổ kính, lòng không chút ngã mạn.
Chẳng nghĩ mình trì giới mà khinh kẻ hủy phạm. Chẳng cậy có trí tuệ mà cho kia ngu si. Cũng chẳng khoe mình cao quí mà xem thường người hạ tiện... Cho đến thấy các loài bò bay máy cựa, côn trùng nhỏ nhít cũng chẳng bỏ lòng thương xót, mà thảy đều mến yêu và càng bảo bọc chúng hơn. Chính đấy là lòng từ bi bình đẳng, là nghĩa bất khinh vậy. Người tu hành phải nên học như thế !
Lại bất khinh còn ám chỉ người tu hành, chẳng nên tự khinh mà thoái khuất.
Nên biết sáu căn trong sạch, tâm thể xưa nay của mình cùng chư Phật không khác. Các Ngài đã được làm Phật, tại sao ta lại cố thủ ngu si để làm gì? Cổ đức có câu: “Kia đã trượng phu, ta cũng vậy”. Đến chỗ này, các học nhân cần phải nhận rõ. Lại kinh Kim Cương cũng có dạy: “Pháp ấy bình đẳng, không có cao thấp”.
Kệ rằng:
Đọc kinh tìm lý chớ lôi đồng1
Xét kỹ mới hay hợp chánh tông,
Tin chắc chúng sanh có Phật tánh,
Chớ khi tự thoái, giữ ngu mông,
Bồ-tát Bất Khinh cơ dụng lớn,
Tỳ kheo thượng mạn mịt mờ đồng,
Người trí biết rành sẽ làm Phật,
Không như nhóm ấy lạc ngoan không.
Tế khán phương năng khế chánh tông,
Khả tín chúng sanh giai Phật tánh,
Bất ưng tự khuất thủ ngu mông,
Bất Khinh Bồ-tát cơ quan đại,
Thượng mạn Tỳ kheo hối ám trung,
Trí giả tự tri đương tác Phật,
Vô như bỉ chúng lạc ngoan không.
細看方能契正宗,
可信眾生皆佛性,
不應自屈守愚蒙,
不輕菩薩機關大,
上慢比丘晦暗中,
智者自知當作佛,
無如彼眾落頑空。
Phẩm Như Lai thần lực và Phẩm Chúc luỵ
Phẩm Như Lai hiện thần lực. Đây là lúc đem trao Diệu pháp một đại sự nhân duyên. Bởi trong kinh, trước phóng quang để bày tỏ nhãn căn thấy tánh. Thấy tánh này, ứng dụng từ trong tâm thể xưa nay trong sạch, vô lượng nghĩa, chẳng thể nghĩ bàn. Khiến các chúng sanh trở lại cái thấy tánh đó, xoay về quán bản tâm xưa nay của mình, mà ngộ nhập tri kiến Phật.
Tiếp đó dần dần khai diễn, tâm căn vốn cùng một nguồn với tri kiến, đồng một thể dụng chẳng phải hai. Cho đến cả sáu căn, cũng đồng là ứng dụng của tâm trong sạch xưa nay. Tâm này tức là nhất đại sự tri kiến Phật vậy. Đại chúng đã nhận ra nhưng nơi cửa sáu căn chưa biết nên từ căn nào mà vào, mới là Diệu pháp tối thượng. Nên Phật lại phóng quang, trưng biểu cùng việc phóng quang trước chẳng khác. Phật hiện tướng lưỡi rộng dài, tức là biểu hiện sẽ nói pháp lớn rất ít có. Cũng lại tiêu biểu cho thiệt căn hay diễn thuyết pháp âm đại thừa, khiến cho người nghe tâm họ có thể ngộ nhập. Lưỡi là mầm mống của tâm, lưỡi nói chính là tâm nói vậy.
Kế lại tằng hắng, khảy móng tay phát thành tiếng. Đây chính là phút giây đối mặt thân trao pháp lớn. Bởi chỉ cho nhân tiếng để bày ra tánh nghe của nhĩ căn. Mà nhĩ căn viên thông thường tỏ rõ, năm căn chẳng sánh kịp. Thế nên đức Phật tằng hắng, rồi khảy móng tay, mật lệnh hãy tự hiểu lấy. Thầm dạy từ nhĩ căn mà vào. Kinh Lăng Nghiêm nói:
Chân giáo thể phương này,
Thanh tịnh tại nghe tiếng,
Muốn được Tam-ma-đề,
Thật từ nghe mà vào.
Lại bảo: “Chỉ dùng căn này tu viên thông, vượt hơn các căn khác”. Nhưng đức Phật chẳng dùng tiếng pháp bày tỏ nhĩ căn là biểu hiện lìa tướng nói năng. Dùng âm thanh tằng hắng, khảy móng tay, để nêu rõ nhĩ căn là biểu hiện lìa tướng tâm duyên. Tỏ ý chỉ tánh nghe của nhĩ căn dẫy đầy tròn sáng mà thôi. Chư Phật đồng phóng ánh sáng cho đến đồng tằng hắng và khảy móng tay là trưng biểu mười phương các đức Phật đồng một đạo này. Lại, trưng biểu cho tánh thấy nghe hiểu biết linh minh của đương cơ, nhất thời đồng khắp mười phương cõi nước của chư Phật, rỗng suốt không ngại không tạp.
Nên biết tiết này cùng kinh Lăng Nghiêm chỗ nêu bày số lượng công đức của sáu căn, để lựa chọn trong căn viên thông cái thông lợi bậc nhất thì từ căn này mà vào. Đánh chuông là để hiển lộ tánh nghe chân của nhĩ căn, minh lợi viên thông thường tỏ rõ rất là thù thắng. Kinh này thì tằng hắng, khảy móng tay, cũng cùng một ý nói trên. Kinh nói: “Tiếng tằng hắng và tiếng khảy móng tay của chư Phật nghe khắp mười phương cõi đất đều có sáu điệu vang động”.
Quan trọng ở hai chữ “nghe khắp” vậy. Lại tằng hắng tức là bảo cho biết việc đó để xoay trông lại. Còn tiếng khảy móng tay là để chỉ cho đã quét sạch tất cả, xưa nay không pháp có thể thuyết. Chỉ thẳng cái linh minh đó nghe khắp rỗng suốt mười phương là tự tánh trong sạch xưa nay của các ông đấy. Người nghe nên như thế mà ngộ nhập.
Sau là phẩm Chúc Lụy. Bởi trước là tự lợi, đến đây bảo phải lợi tha, tuyên dương rộng rãi pháp này, lưu bố khắp nơi chớ sanh keo kiệt. Như trong kinh Lăng Nghiêm có đoạn ngài A-nan tự phát thệ: “Mình chưa được độ, trước độ người là phát Bồ-tát tâm. Tự giác đã xong, hay giác ngộ kẻ khác là Như Lai ứng thế. Con dù chưa được độ, nhưng nguyện độ tất cả chúng sanh đời sau...”
Trong phẩm Chúc Lụy này nhằm nêu bày ý dẫn trên. Kệ rằng:
Như Lai thần lực rất lạ kỳ,
Chính đã hợp căn, trao pháp thì,
Lưỡi ấy, đành rành truyền đại giáo,
Tiếng ho thầm bảo nhận văn tri,
Một phen cùng chứng Chân nhân địa2
Tay khảy viên dung Đại Mâu-ni
Cúi nhận Như Lai thân trao phó,
Gió hoa tuyết nguyệt mặc thi vi.
(Giao phó cho rồi Trí vô sư3
Liền khuyên phát khởi Đại vân từ4
Đây thuyền giải thoát đưa người khổ,
Kìa đất yên vui sống như như,
)
Như như chớ tưởng như núi đá,
Bốn tướng oai nghi cũng như như,
Lợi mình lợi người đâu lẫn tiếc,
Khiến khắp quần sanh vào Vô dư5
Chánh thị đầu căn phó pháp thì,
Thiệt tướng đắc minh truyền đại giáo,
Khái thanh linh giác ngộ văn tri,
Nhất thời cộng chứng chân nhân địa,
Đàn chỉ viên dung đại Phật thừa,
Diện phụng Như Lai thân chúc thọ,
Phong hoa tuyết nguyệt nhất như như,
Như như bất thị như sơn thạch,
Tứ oai nghi nội diệc như như,
Tự lợi lợi tha chung bất lận,
Phổ linh quần hữu nhập vô dư.
正是投根付法時。
舌相則明傳大教,
欬聲令覺悟聞知。
一時共證真因地,
彈指圓融大佛乘。
面奉如來親囑授,
風華雪月一如如。
如如不是如山石,
四威儀内亦如如,
自利利他終不愘,
普令群有入無餘。
Phẩm Dược vương Bồ-tát bản sự
Phẩm Dược Vương Bồ-tát bản sự là nhiếp phẩm trước. Đã vào căn Đại thừa này, hẳn phải lìa ngã ái và pháp ái. Chớ ưa giao du với người, hãy bỏ các nơi ồn náo, nhiếp niệm ở chốn núi rừng, và phải hết lòng lắng nghe ! Kinh Kim Cương có câu: “Pháp còn nên bỏ, huống nữa phi pháp”.
Nên biết từ phẩm này trở về sau, đều chỉ rõ chỗ Văn Tư Tu ấy, để thứ lớp mà tiến vào, trục phá năm ấm, hiểu suốt ba không vậy. Nay từ phẩm này trước phá sắc ấm. Vì sắc ấm là lớp vọng tưởng bền chắc thứ nhất rất khó phá, nên phải phát tinh tiến lớn, chẳng tiếc thân mạng, mới có thể phá nổi. Như Bồ-tát Hỷ Kiến đốt thân cúng Phật. Đây nhằm bày tỏ vì đạo quên mình. Dù vào đống lửa lớn phiền não, mà cũng chẳng thoái thác.
Lại cũng tượng trưng cho người mới vào căn này, trước được nhân không, là nhiếp động về tịnh, yên trụ trong cảnh tịnh. Sau đó tái sanh, là chứng tỏ chẳng đắm trước cảnh tịnh. Phải ở trong cảnh tịnh mà phát giác, chẳng rơi vào hầm tối hôn trầm, khiến cho tánh nghe thường rõ ràng, ánh sáng trí tuệ lặng lẽ chiếu soi, không như cái lặng lẽ của loài vô tình núi đá kia vậy. Thiền sư Hoàng Bá dạy:
Chớ chỉ quên mình với tử tâm,
Cái đó khó trị, bệnh rất thâm.
Cần kíp mạnh mẽ cảnh tỉnh lấy ! Thân sau lại bỏ hai cánh tay là chỉ cho động tịnh cả hai đều quên, nhân ngã cả hai đều bặt. Lập thệ hoàn phục như cũ, đấy để chứng minh là đã được hai cánh tay phước đức trí tuệ của Phật vậy. Kinh nói: “Do đây, Bồ-tát phước đức trí tuệ và đôn hậu đến thế ấy”. Nên biết rằng tiết này đồng với kinh Lăng Nghiêm chỗ thứ tự mở sáu gút của sáu căn.
Kệ rằng:
Nên biết không xưa nay chẳng kham,
Công án tiền nhân cần phải tham,
Nhận kỹ, Dược Vương nhân việc trước,
Xét cùng, Hỷ Kiến hạnh cao thâm,
Nghe kinh được định, bày rạng đức,
Cảm nhận đốt thân, bỏ ý tham,
Chứng tỏ nhân không lìa tướng ngã,
Người nghe mãnh tỉnh, kiếm tri âm.
Công án tiền nhân hậu khả tham,
Tế nhận Dược vương nhân bản sự,
Đế quan Hỷ Kiến hạnh trung đàm,
Văn kinh đắc định thân minh đức,
Cảm Phật phần thân khí sở tham,
Chánh hiển nhân không ly ngã tướng,
Văn nhân mãnh tỉnh mích tri âm.
公案前人後可参。
細認藥王因本事,
諦觀喜見行中談。
聞經得定親明德,
感佛焚身棄所貪。
正顯人空離我相,
聞人猛省覓知音。
Phẩm Diệu âm Bồ-tát
Phẩm Diệu Âm, là nhiếp phẩm Dược Vương trước. Ý bảo rằng, căn này từ lúc mới vào, vẫn cần nhờ các âm thanh, để bày tỏ tánh nghe, tiêu mòn vọng niệm, vào Xa-ma-tha (chỉ). Dần dần vào sâu, giữ nơi chí tịnh. Cho đến cả động tịnh đều quên. Phải ngay nơi đây mà vào Tam-ma-địa (quán). Khi đó chẳng cần thanh trần hiện bên ngoài nữa, mà ở trong tự có diệu âm, riêng sáng, độc chiếu. Thiền sư Cổ Linh Thần Tán (Bài thơ này của Tổ Bá Trượng.) nhắc lại:
Linh quang riêng chiếu,
Vượt khỏi căn trần,
Bày thể thường chân,
Chẳng kẹt văn tự.
Đấy là lúc rõ được pháp không vậy.
Tiết này lấy Bồ-tát Hoa Đức làm hợp cơ, mà được Pháp Hoa Tam-muội. Nói Hoa, đó là tri kiến. Còn Đức là diệu thể của các đức đầy đủ trong bản tánh. Tóm lại, nói Hoa Đức là nhằm tiêu biểu cho tánh tự nghe tánh, tâm tự biết tâm, cũng chính là nghĩa minh tâm kiến tánh vậy.
Nói Pháp Hoa Tam-muội. Pháp tức là Diệu tánh chân như sẵn có. Hoa tức tánh ấy đủ Diệu năng Tri kiến thanh tịnh. Tam-muội hoặc bảo là tam-ma-đề, đây nói rằng chánh thọ, cũng gọi rằng chánh định. Lại gọi là định tuệ đẳng trì, tức là nghĩa chánh quán vậy. Đây nói rõ, chính được đại định sẵn có tri kiến chân như, cũng là phá lớp vọng tưởng hư minh của thọ ấm thứ hai.
Kệ rằng:
Đảnh Phật thần quang tịch chiếu thông,
Diệu Âm Bồ-tát hiện thân dung,
Rộng phô tam-muội nêu tri kiến,
Bày hiện Nhất thừa, rõ đạo tông,
Thể dụng về như, nghe tức tiếng,
Căn trần rốt ráo, sắc mà không,
Chương này mượn huyễn bày chân tế,
Giáo thể từ nghe vào thật dòng.
Diệu Âm Bồ-tát hiện thân dung,
Quảng tuyên tam-muội chương tri kiến,
Trợ hiển Nhất thừa thị đạo tông,
Thể dụng qui như thanh tức thính,
Căn trần cứu cánh sắc nhi không,
Thử chương tá huyễn minh chân tế,
Giáo thể tùng văn nhập thật trung.
妙音菩薩現身容。
廣宣三昧彰知見,
助顯一乘示道宗。
體用歸如聲即聽,
根塵究竟色而空,
此章借幻明真際,
教體從開入實中。
Phẩm Quán thế âm Bồ-tát Phổ môn
Phẩm Phổ Môn là tánh quán tự tại, ứng khắp quần cơ. Đây chính nói rõ phương pháp chóng ngộ của thiền-na, để tự thấy tâm thể xưa nay trong sạch của chính mình. Bởi nhiếp trong phẩm Diệu Âm trước, dù đã cùng lìa động tịnh các thanh trần bị nghe, song vẫn còn chấp có tánh nghe hay nghe, chưa đạt được bản tâm, thể tịch diệt xưa nay là chân như. Đến đây, mới vừa tạn mặt, mới biết tâm thể vốn hư linh. Ứng hiện phổ môn, tùy thời phó cảm, cứu khổ độ sanh, ứng vật hiện hình, như trăng đáy nước, chẳng cuộc nhĩ môn, nên nói là Phổ Môn. Đây cũng nhằm bày tỏ đã nhận được Phật tuệ chân không, ứng hiện tự tại là khi chóng rõ không không vậy.
Lại phẩm Diệu Âm ở trước, cũng có ba mươi hai ứng, đồng như phẩm Phổ Môn này, mà chẳng nói tự tại, là cớ sao ?
Đây là chỗ cơ yếu trong cửa huyền, rất khó xét lường. Bởi nhân tiếng mà thành nghe, nhân nghe mà thành tiếng. Song tiếng, nghe cùng quán sát thì một lúc đồng hiện, cho nên ứng dụng cũng đồng dấu vết kia. Nhưng, trong kinh Diệu Âm có tướng đến đi, còn Quán Âm là nói nghiệp tự tại, vì Diệu Âm tức là tánh hay nghe. Do lúc có âm thanh, thì tánh hay nghe mới bày ra, lúc không âm thanh thì tánh hay nghe tự lặng lẽ. Đó là chỗ mà Diệu Âm có dấu vết đến đi, tiêu biểu cho tánh hay nghe theo cái có không, sanh diệt của tướng âm thanh. Khác nào những hình bóng không thật trong gương kia. Lại, như hành khách tạm dừng rồi đi, nên chẳng tự tại. Nói Quán Âm là nghiệp tự tại. Nghiệp chính là bản tâm, là chủ nhân ông. Tự tại tức là bản tâm linh tri, cũng là chủ nhân ông. Bởi nghe có nghe không, tự là thanh trần hoặc có hoặc không, mà linh tri biết có biết không đó, chân quán thường tự tại. Thế thì, không tiếng đã không diệt, có tiếng cũng chẳng sanh, tức chẳng sanh chẳng diệt, không đến không đi, và chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải động chẳng phải tịnh, tất cả đều chẳng phải, đó là chân quán tự tại. Lại, tức sanh tức diệt, tức đến tức đi... tất cả đều tức, đó là đại Bồ-tát. Trong kinh có đoạn:
Quán chân6 quán thanh tịnh7,
Quán trí tuệ rộng lớn8,
Quán bi9 và quán từ10,
Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng,
Sáng trong sạch không nhơ,
Trời tuệ phá các tối,
Hay dẹp vạ gió lửa,
Sáng soi khắp thế gian.
Tiết văn này, chính là nêu rõ trí đại viên cảnh, Phật tuệ chân không, cảm ứng của Quán Tự Tại, cũng đả phá lớp vọng tưởng dung thông của tưởng ấm thứ ba vậy.
Nên biết rằng, phẩm Phổ Môn này, cùng với kinh Lăng Nghiêm chỗ đức Quán Thế Âm nói về nhĩ căn viên thông, từ Văn Tư Tu vào Tam-ma-địa là đồng một ý, chỉ khác nhau ở chỗ kín và bày đó thôi.
Kệ rằng:
Quan san trải khắp thẳng về nhà,
Chẳng biết đường xưa mấy dặm xa,
Gót dẫm Phổ Môn riêng tiến bước,
Quán chân tự tại, tát-bà-ha,
Tùy cơ ứng hiện tìm tiếng cảm,
Chẳng bỏ từ bi độ khổ hà,
Thanh tịnh quán soi, đây tuệ nhật11,
Sáng trùm vạn tượng khắp sum la.
Bất thức tùng lai lộ kỷ đa,
Cước đạp phổ Môn đơn trực nhập,
Đế quán tự tại, tát-bà-ha,
Tùy cơ ứng hiện tầm thanh cảm,
Bất xả từ bi độ khổ hà,
Thanh tịnh quán, quán tư tuệ nhật,
Viên minh vạn tượng hiển sum la.
不識從來路幾多。
腳踏普門單直入,
諦觀自在薩婆訶。
隨機應現尋聲感,
不拾慈悲度苦河。
清淨觀觀斯慧日,
圓明萬象顥森羅。
Phẩm Đà-la-ni
Phẩm Đà-la-ni, đây gọi là Tổng trì. Nghĩa là tổng nhiếp tất cả pháp, và thọ trì tất cả nghĩa. Do vì người tu hành đã thấy được tâm thể xưa nay trong sạch của mình rồi. Phải biết rằng, tâm này vốn đầy đủ hằng sa công đức, và vô lượng pháp môn cũng đều nương nơi tâm này mà diễn xuất. Người nhận đây tu hành, thì sáu độ muôn hạnh thảy đều trọn đủ. Lại, thọ trì mật ngữ, thần lực thầm giúp, có thể mau chứng quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nhưng, thọ trì đà-la-ni, là biểu lộ tâm này vốn không phân biệt, chẳng thể suy lường, không cho nghĩ nghị, cho đến lìa tất cả tướng ngôn ngữ, văn tự, nghĩa lý... Kinh Kim Cương nói: “Phàm những gì có tướng đều là hư vọng” chỉ linh linh, lặng lặng, sừng sững chẳng đổi. Thế nên ý nghĩa trong thần chú, không thể diễn giải, chỉ tin nhận và thọ trì, thần công chẳng thể trắc nghiệm nổi. Và đây cũng nhằm đả phá lớp vọng tưởng u ẩn của hành ấm thứ tư vậy.
Nên biết, tiết này cùng với kinh Lăng Nghiêm, đoạn nói về ba cõi, bảy thú, mười hai loài sanh, tất cả cõi nước hữu vi gồm về trong một tâm này mà sanh. Nếu khi đắc ngộ, thì ba cõi, bảy thú v.v... đều là mộng huyễn, đều do vọng tưởng khởi lên, vốn chẳng có thật.
Giờ đây, thọ trì đà-la-ni, lòng không phân biệt, chẳng khởi vọng tưởng. Thế thì, hội vọng qui chân, chân vốn lặng sáng. Khi đó chẳng còn thấy có tướng ba cõi, bảy thú, cùng tất cả hữu vi nữa. Vì thế chư Phật và Bồ-tát cùng chư thiên, quỉ thần, đồng thanh nói đà-la-ni, cũng là để chứng tỏ tổng qui ở một tâm này thôi. Tổ sư Vĩnh Gia nói:
Chóng biết rõ, thiền Như Lai,
Sáu độ, muôn hạnh thể tròn bày,
Trong mộng, rõ ràng có sáu thú,
Thức rồi, không không, chẳng đại thiên.
Nói trong mộng, tức chỉ cho trong vô minh vọng tưởng thấy có các cảnh giới vậy. Kệ rằng:
Tiếng Phạn tên gọi đà-la-ni12
Phương này dịch lại ấy tổng trì,
Đọc tụng cần rành viên đốn chỉ,
Thọ trì nên rõ tín diệu tri,
Thần thông tợ biển văn linh tỏ,
Trí tuệ dường non mật ngữ ghi,
Trong tánh tịch diệt không một vật,
Xưa nay một vật tột thi vi.
Thử tắc phiên vi tổng trì môn,
Độc tụng tu tri viên đốn chỉ,
Thọ trì đương tín diệu chân tồn,
Linh văn cụ túc thần thông hải,
Mật ngữ bao hàm trí tuệ sơn,
Tịch diệt tánh trung vô nhất vật,
Bản lai nhất vật độc xưng tôn.
此則翻爲總持門,
讀誦須知圓頓旨,
受持當信妙真存。
靈文具足神通海,
密語包含智慧山。
寂滅性中無一物,
本來一物獨稱尊。
Phẩm Diệu trang nghiêm vương bản sự
Phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương. Đây là dặn phải khéo hộ trì tâm ấy, biện rành tà chánh. Chớ cho được như thế là tự đủ, rồi sanh lười nhác. Hoặc bị ấm ma hoặc loạn, hoặc bị thiên ma nhiễu hại, hoặc lại giữa đường thành cuồng, hoặc lạc nơi đường tà, hoặc do đắm yêu chỗ tập từ trước ôm giữ trong lòng, mà sanh tăng thượng mạn, hoặc là chìm không, hoặc lại kẹt tịch, dừng nghỉ ở hóa thành, chẳng có thể lại tiến lên. Do các duyên này v.v... nên chẳng có thể tiến đến Bảo sở.
Xét thấy vua Diệu Trang Nghiêm là tượng trưng cho người tu hành, là tâm vương của chính mình. Phu nhân Tịnh Đức là tượng trưng cho chánh trí tuệ. Tịnh Tạng là tượng trưng cho chánh tri. Tịnh Nhãn là tượng trưng chánh kiến. Nghĩa là người tu hành hay nương nơi chánh trí tuệ, chánh tri, chánh kiến, lấy đó làm thiện tri thức căn bản. Do thiện tri thức căn bản này, khéo gìn giữ lòng mình. Trong khi thiền định, phàm có thấy nghe hiểu biết, tất cả hiện tượng, cảnh giới lành dữ, lòng chớ tham trước, chớ khởi thánh giải, cho đến cũng chớ sanh lo mừng cùng các tâm như đã nói trên. Chỉ dùng trí tuệ quán sát nơi không tịch, thì tất cả cảnh giới hiện ra đó, liền khi ấy tự nhiên tiêu diệt. Khiến cho hành giả chẳng thoái chuyển nơi đạo vô thượng chánh chân. Đây nhằm phá lớp vọng tưởng võng tượng hư vô điên đảo của thức ấm thứ năm vậy.
Nên biết văn trong tiết này, đồng với kinh Lăng Nghiêm phần nói về năm ấm, năm vọng tưởng, xuất hiện năm mươi lớp cảnh giới ma. Muốn biết việc ma thế nào, xin đọc kinh Lăng Nghiêm quyển 9, quyển 10 thì rõ, đây chẳng thuật hết.
Kệ rằng:
Vô thủy luân hồi, ái là căn,
Đuổi theo tà ác, thọ sanh thân,
Xoay về tịnh tạng gieo lời thỉnh,
Khéo độ trang nghiêm tin chánh nhân,
Chẳng lại tự theo tâm hạnh ác,
Từ nay nguyện thích Phật năng nhân,
Đấy nêu gặp được chân tri thức,
Hay chuyển Bồ-đề bất thoái luân.
Tùy tà trục ác thọ sanh thân,
Hồi quang tịnh tạng đầu thân thỉnh,
Thiện hóa trang nghiêm tín chánh nhân,
Bất phục tự tùy tâm hạnh ác,
Tùng kim nguyện nhạo Phật năng nhân,
Thử minh đắc ngộ chân tri thức,
Năng chuyển Bồ-đề bất thoái luân.
隨邪逐惡受生身。
回光淨藏投伸請,
善化莊嚴信正因,
不復自隨心行惡,
從今願樂佛能仁。
此明得遇真知識,
能轉菩提不退輪。
Phẩm Phổ hiền Bồ-tát khuyến phát
Phổ Hiền là tâm nghe thấu suốt khắp mười phương, không chỗ nào mà chẳng đến. Đây là nhiếp phẩm Diệu Trang Nghiêm ở trước, khi được vị thiện tri thức căn bản nắm tay dắt đi, khiến chẳng lạc vào các nẻo tà hiểm mà được thấy Phật. Bởi Phổ Hiền dùng tâm nghe mà được chứng, tức biểu trưng cho kinh lúc đầu lấy nhãn căn thấy tánh để khai thị, khiến ngộ nhập bản tâm. Kế lại, từ tánh nghe của nhĩ căn mà tu. Đến đây đã vào trong tánh nghe, công năng rất là cùng cực, tự thấy tâm thể trong sạch xưa nay của mình. Mới biết chính thật là tâm nghe, chẳng phải tai nghe vậy.
Than ôi ! Chúng sanh vọng sanh phân biệt, cho tánh nghe thuộc lỗ tai. Ngoài thì, niệm niệm rong ruổi theo thanh trần, trong lại bời bời phan duyên dấy khởi. Lẫn theo những phải quấy của thanh tướng, vọng tưởng phiền não loạn khởi. Chẳng biết tánh nghe ấy chính là tâm, sẵn có hạnh lớn Phổ Hiền. May mắn được khai thị, mới hay ngộ nhập ý nghĩa tâm nghe Phổ Hiền.
Nói tâm nghe tức là nhĩ thức, nhĩ thức chính là tâm linh, diệu dụng khắp suốt mười phương pháp giới. Tâm khắp mười phương, thì nghe cũng khắp mười phương. Nghe khắp mười phương, thì biết cũng khắp mười phương. Biết khắp mười phương thì tâm thức thấu suốt pháp giới, thành Tạng Đại Quang Minh vậy. Nói khuyến phát, nhằm bày tỏ chớ lấy trí nhỏ cho tự đủ, phải phát khởi tiến lên, cầu đạo Bồ-đề vô thượng. Nghĩa là dù đã sạch hết năm ấm, năm vọng tưởng diệt, vượt ngoài năm trược, thoát khỏi ba cõi, thức tâm tròn sáng, hàm dung pháp giới, mới có thể lãnh ngộ yếu chỉ tâm nghe, nhưng vẫn chưa phải là tâm rốt ráo tịch diệt Niết-bàn. Thế nên cần phải khuyến phát tâm Bồ-đề, tu hạnh Phổ Hiền, thẳng vào biển lớn Tỳ-lô hoa tạng, soi thấy đạo tràng trong sạch xưa nay, thân cận bản tôn Quang Minh Biến Chiếu là pháp thân thanh tịnh Như Lai Tỳ-lô Giá-na trọn thành vô thượng Bồ-đề, trở về chỗ không sở đắc. Đây mới chính thật tỏ rõ tạng thức Đại Quang Minh vậy.
Hỏi: Phát tâm Bồ-đề là thế nào ?
Đáp: Bồ-đề có vô lượng nghĩa. Tất cả ba tạng, mười hai bộ kinh, đều là nghĩa của Bồ-đề, nên chẳng thể thuật hết. Nay xin lược lấy một vài lối giải thích rất gần mà chỉ ra đó thôi.
Bồ-đề, đây nói là tánh giác. Lại, bồ là chiếu, đề là kiến. Nói chung là tánh giác chiếu kiến. Tánh giác chiếu kiến này là tri kiến Phật.
Phát là mở ra, bày ra. Lúc còn mông muội mà phát minh ra. Ví như các cảnh giới thấy trong mộng, đều chẳng rời giấc mộng. Lúc biết là cảnh mộng, toàn thể đều là không. Biết rõ ràng cảnh mộng đều không, đó là nghĩa phát giác.
Lại như lúc còn mông muội chưa sáng, thì tánh giác bị bóng dáng duyên theo sáu trần làm mờ tối. Phàm đã thấy biết, đều như cảnh mộng, dù có tri kiến ấy, đều là mông muội, đó chỉ cho tri kiến của chúng sanh. Nếu lúc ngộ, thì bóng dáng duyên theo sáu trần, toàn thể đều không. Đã biết rõ trần ảnh đều không, thì tri kiến đó là tri kiến Phật, cũng gọi là phát tâm Bồ-đề và là tâm phát giác vậy.
Lại phát tâm Bồ-đề là biết rõ tất cả chư Phật, cùng các chúng sanh, đồng một giác nguyên, mình người một thể. Chỉ chúng sanh bị thức tâm vọng tưởng duyên theo bóng dáng sáu trần làm mê hoặc, nên chẳng hay biết. Ta đã tự giác, lại hay giác ngộ cho chúng sanh, nguyện khắp chúng sanh đều thành chánh giác. Đấy gọi là phát tâm giác cho tất cả vậy.
Nhưng phát tâm Bồ-đề là chỉ cho người tu hành, tâm ban đầu được phát giác. Bởi ta cùng chúng sanh từ vô thủy đến giờ, trái giác hợp trần, chấp bốn đại năm uẩn cho là thân tâm. Niệm niệm duyên theo trần cảnh, phân biệt các ảnh sự, chưa từng có một niệm hồi quang, chẳng biết đến bao giờ tâm mới có thể phát giác ! Thế nên, tâm ban đầu được phát giác này, là việc rất khó ! Người xưa trèo non vượt biển, chỉ vì cầu “Tâm ban đầu phát giác” đó thôi.
Nói phát giác tức là tự thấy Phật tánh. Phật tánh chính là tự thể tánh giác. Có thể thấy được tự thể tánh giác này, thì tất cả việc làm đều là Phật sự. Cần thiết chớ nhận lầm thức tâm vọng tưởng duyên trần cho là tự mình, thì thức tâm như huyễn, việc tu hành cũng đều như huyễn. Kinh nói: “Nhận giặc làm con” là đấy !
Nhưng tâm ban đầu phát giác đó, đã như ở trước, phần Tổng nêu pháp dụ đề mục của kinh và trong phẩm Tựa có nói rồi. Đến sau phần Bạt dẫn Tông chỉ, lại sẽ chỉ rõ hơn.
Hỏi: Làm thế nào tu hạnh Phổ Hiền ?
Đáp: Hạnh đầy khắp pháp giới, gọi là Phổ. Vị gần kề Á thánh, ấy là Hiền. Hạnh thì như mười đại nguyện vương trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Bất Tư Nghì Giải Thoát Cảnh Giới nói: Một sắc một hương đều khắp pháp giới. Nói tóm lại là:
Các điều ác chớ làm,
Vâng làm các việc lành.
Đấy gọi là hạnh Phổ Hiền.
Nhưng người tu hành học theo hạnh Phổ Hiền, tức là dùng yếu chỉ lỗ tai nghe, từ nhĩ thức mà vào. Chỉ dùng nhĩ thức theo niệm phân biệt, soi khắp quần cơ, lựa hạnh lành của Phổ Hiền kia mà tu, để tròn đầy tuệ tự tại, thành tựu trí nhất thiết chủng.
Hỏi: Từ trước, quở chê thức tâm, bảo là huyễn vọng. Đến đây, cớ sao lại nói nhĩ thức là hạnh lớn chân thật. Thế ấy đâu khỏi trước sau có thủ xả ư ?
Đáp: Quở chê ở trước, đó là thức tâm duyên trần. Nếu ngoài hiện sáu trần, thì trong khởi thức tâm, vọng sanh phân biệt. Trần qua thì thức phân biệt tự không, vì thế bảo rằng huyễn vọng cần phải bỏ. Nay thức này là dụng của nhĩ căn, đầy khắp mười phương, tùy lúc nghe, tùy lúc nhận thức, tùy lúc phân biệt, nó trạm nhiên thường trụ. Như ánh sáng của mặt gương, tức thức tánh trong kinh Lăng Nghiêm, nói “Minh tri giác minh, chân thức diệu giác trạm nhiên, biến chu pháp giới, dung nhập Như Lai tạng tánh, Diệu liên hoa tâm”. Thế nên, đáng phải giữ lấy mà tu. Đức Di Lặc cũng do tròn thành Tam-muội thức tâm này, mà tương lai sẽ làm Phật. Trong kinh Phổ Hiền cũng nói: “Nếu có người thọ trì đọc tụng hiểu nghĩa thú kia, người đó lúc mạng chung, được một ngàn vị Phật đưa tay xoa đầu. Khiến lòng không sợ hãi, chẳng lạc vào nẻo ác, liền sanh lên cung trời Đâu Suất, chỗ Bồ-tát Di Lặc đang ở”.
Đây cũng chính bày tỏ đã hội được nhĩ thức kia, mà trở về tánh thức Như Lai tạng vậy.
Lại, phẩm này cũng nói Đà-la-ni là biểu lộ thể tâm nghe này, tổng trì tất cả công đức của pháp thân chư Phật, hiện khắp tất cả đạo tràng Bồ-đề của chư Phật, rộng làm việc Phật, lợi ích chúng sanh, là con của đấng pháp vương vậy.
Kệ rằng:
Đầu nói Hoa Nghiêm, đây Pháp Hoa,
Trước sau thuần một Diệu Liên Hoa,
Văn Thù trí gốc, đơm Phật tuệ,
Phổ Hiền tâm nghe, trổ giác hoa,
Thâm ngộ Đà-la-ni mật ý,
Trên gần Di Lặc, thức tâm hoa,
Tương lai đồng đến Long Hoa hội,
Nhân quả hợp nhau, gốc Pháp Hoa.
Thủy chung thuần nhất Diệu Liên Hoa,
Văn Thù bản trí khai Phật tuệ,
Phổ Hiền tâm văn, phát giác hoa,
Thâm ngộ Đà-la-ni mật ý,
Thượng thân Di Lặc thức tâm hoa,
Đương lai đồng đáo Long Hoa hội,
Nhân quả tương phù bản Pháp Hoa.
始終純一妙蓮華。
文殊本智開佛慧,
普賢心聞發覺華。
深悟陀羅尼密意,
上親彌勒識心華。
當來同到龍華會,
因果相符本法華。
Nguyên lai kinh này là gồm chứa hải tạng của Hoa Nghiêm, nhiếp thu tông hiến của các kinh, tóm lãnh nhân duyên xuất thế của chư Phật, bày tỏ tri kiến Nhất thừa của chúng sanh. Chỉ hơn sáu muôn lời, mà lý hàm súc vô tận, có hai mươi tám phẩm, mà nghĩa sâu kín khôn lường. Tôi dù làm Đề Cương này, như loài muỗi nhặng uống nước biển cả. Trí hẹp biết lờ mờ chỉ thú, khác nào lấy ống tre dòm trời cao. Tuy chẳng suốt thấu huyền vi, cũng chẳng dám trái thánh chỉ. Hoặc có kẻ lại bảo: Văn từ này, chẳng thấy hiện có trong kinh kia, nên nghi.
Xin hãy xem lại thật kỹ trong kinh, xét cho chín chắn lời lẽ của mỗi phẩm. Nghĩa trong lời, lý trong nghĩa, uẩn trong lý, áo trong uẩn, khả dĩ hội ý mới hiểu. Chớ đem kiến giải ngoài da, mà mờ mịt đối với cốt tủy trong kinh.
Kinh nói:
Tạng kinh Pháp Hoa này,
Sâu xa bền kín lắm,
Không người có thể đến...
Đã bảo rằng sâu xa bền kín thì chẳng thể dùng văn nghĩa cạn cợt bên ngoài mà có thể tột cùng nguồn đáy kia. Nhưng người xưa có dạy: “Nói pháp chẳng lìa tự tánh, lìa tự tánh nói pháp tức thành ma nói.” Xin hiểu Đề Cương này của tôi, cũng là lời lời chỉ tánh, câu câu sáng tông, mà chẳng lìa nơi tự tánh vậy. Hoặc có trái lầm, xin cho sám hối. May được khai thị, để cứu lỗi kia. Nếu hợp lời kinh, mong đem lưu thông rộng rãi hầu ích lợi cho khắp chúng sanh.
-
Lôi đồng có hai ý: 1) Hạng người sống mất chủ quyền, sai gì làm nấy, hô đâu giáng đó...2) Hành giả không đạt được lý, chẳng nhận ra tâm, hằng bị giặc phiền não kiết sử sai khiến. ↩
-
Chân nhân địa hay Đại Mâu-ni: Tức chỉ cho nhân địa và quả vị vô lậu, giải thoát cùng tột, pháp thân hiển lộ, bi trí viên mãn, lợi mình, lợi người cùng khắp. Bài kệ cuối của Tam Thập Tụng Duy Thức nói:
Thử tức vô lậu giới, Bất tư nghì, thiện, thường, An lạc giải thoát thân, Đại Mâu-ni danh pháp.↩ -
Trí vô sư: Trí tuệ bản hữu, không phải thứ kiến giải tập thành hằng ngày. Mọi người đều sẵn có thứ trí tuệ này, nó hiện bày một cách độc đáo và tự nhiên khi cơ duyên hội đủ. ↩
-
Đại vân từ: Từ tâm bình đẳng cùng khắp như đám mây lớn, nó không còn đối tượng năng sở và chủ thể khách thể hay bất cứ một lý do nào. ↩
-
Niết-bàn tối hậu không còn thừa sót, tức là đại Niết-bàn của Phật quả vậy. Tám câu thơ sau, bốn câu đầu là do dịch giả dựa ý bài thơ trước diễn ra để hợp vận với bốn câu kết của tác giả. ↩
-
Dùng chân trí soi tỏ chân lý. ↩
-
Rõ thấu pháp tánh thanh tịnh. ↩
-
Trí tuệ rộng lớn suốt thấu tất cả pháp. ↩
-
Khởi tâm đại bi vô biên, luôn xét nỗi khổ của mọi loài để cứu vớt chúng. ↩
-
Vận tâm đại từ vô lượng, thường xem mọi loài ưa thích những gì để ban bố niềm vui cho chúng ↩
-
Trời tuệ. Trí tuệ của chư Phật và hàng Bồ-tát. Cũng như ánh sáng mặt trời hay chiếu dẹp tối tăm thế gian, trí tuệ của chư Phật và Bồ-tát chiếu khắp pháp giới, phá tan mây mê lầm của chúng sanh. Trong kinh Vô Lượng Thọ có câu:Tuệ nhật lãng thế gian, Tiêu trừ sanh tử vân. Tóm lại, hành giả khi đạt được pháp thể không hai, chân trí chân lý hiện bày. Bấy giờ sức trí tuệ rộng khắp, lòng từ bi vô hạn và khởi phương tiện lợi lạc chúng sanh. ↩
-
người Trung Hoa dịch là Tổng trì. Vị nào chứng được môn Văn trì đà-la-ni thì nghe giáo pháp đều có thể hiểu nhớ tất cả. ↩